Page 48 - Cẩm nang Chăm sóc sức khỏe ban đầu cho CBCNV trong Tập đoàn Điện lực Việt Nam
P. 48

đ) Vai trò của nước và điện giải
                            Nước tham gia cấu tạo cơ thể

                            Nước là thành phần xây dựng cơ bản của cơ thể. Trong cơ thể người trưởng
                     thành, nước chiếm tỷ lệ khoảng 60-70% trọng lượng cơ thể, tỷ lệ này ở trẻ sơ sinh
                     cao hơn là 74%, còn đối với bào thai tỷ lệ nước chiếm tới 97% trọng lượng cơ thể.

                            Nước trong cơ thể tồn tại hai dạng là nước tham gia cấu trúc ở các cấu trúc
                     phân tử, cấu trúc tế bào, lượng nước cấu trúc chiếm khoảng 60% trọng lượng cơ
                     thể và khoảng 40% còn lại là nước ở dạng tự do.

                            Nước là dung môi các quá trình sinh học của cơ thể

                            Nước là dung môi của hầu hết các quá trình sinh học xảy ra trong cơ thể từ
                     mức độ vi cấu trúc cho tới quá trình hoạt động của cơ quan nội tạng. Phần lớn các
                     phản ứng hoá học trong quá trình chuyển hoá chất dinh dưỡng để tổng hợp ATP,
                     tổng hợp các chất protein, lipid, cácbonhydrate xây dựng cơ thể cũng như quá

                     trình ôxy hoá giải phóng năng lượng đều có sự tham gia của phân tử nước và phần
                     lớn các phản ứng thường xảy ra trong môi trường nước. Nước tự do ở khoảng gian
                     bào, máu ngoại vi, hệ bạch huyết cũng như trong hệ thống ống tiêu hoá, là dung

                     môi hoà tan các chất chuyển hoá, các enzym, chất vi lượng giúp cho quá trình vận
                     chuyển hấp thu chúng. Nếu rối loại cân bằng nước sẽ dẫn tới rối loạn sự hấp thu
                     các chất dinh dưỡng và quá trình chuyển hoá trao đổi chất.

                            Nước tham gia cân bằng, trao đổi nhiệt
                            Nước tham gia quá trình điều hoà nhiệt, giúp cho nhiệt độ cơ thể ổn định.

                     Sự bay hôi của mồ hôi qua đường da và thoát hơi nước qua đường hô hấp giúp
                     cho cơ thể thải nhiệt nhất là đối với điều kiện khí hậu nóng ẩm hoặc trong lao
                     động nặng nhọc. Trong điều kiện thuận lợi 1 gam mồ hôi bay hơi hoàn toàn trên
                     bề mặt da có thể giúp cơ thể thải nhiệt ở mức 580 calo. Khi nhiệt độ không khí
                                          o
                     môi trường trên 33 C cao hơn nhiệt độ trung bình da, khi đó nhiều con đường trao
                     đổi nhiệt giữa cơ thể và môi trường bị đình trệ, chỉ còn con đường thải nhiệt qua
                     mồ hôi bay hơi, do vậy với lượng mồ hôi bài tiết trong lao động nặng thường trên
                     1 lít giờ, giúp cơ thể thải được một lượng nhiệt dư đáng kể.

                            Chuyển hoá nước, cân bằng điện giải
                            Nước giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì áp lực thẩm thấu. Khi giảm

                     hoặc tăng khối lượng nước sẽ làm thay đổi nồng độ các muối hoà tan nhất là các
                     muối có tính chất điện giải như NaCl, thay đổi nồng độ các phân tử protein ở dạng
                     hydrate hoá sẽ ảnh hưởng tới áp lực thẩm thấu và sự cân bằng các nồng độ ion

                     trong cơ thể. Khi rối loạn chuyển hoá nước, như mất nước đột ngột, hay ứ nước
                     trong cơ thể dẫn đến rối loạn điện giải, thay đổi nhiều đặc tính của nội môi.





                                                                 30
   43   44   45   46   47   48   49   50   51   52   53