Phó Tổng Giám đốc EVN Nguyễn Tài Anh
|
PV: Ông có thể cho biết về hiện trạng và khả năng tiêu thụ tro, xỉ tại các nhà máy nhiệt điện của EVN?
Ông Nguyễn Tài Anh: Hiện nay, khối lượng tro, xỉ thải ra từ các nhà máy nhiệt điện than của EVN khoảng 8,1 triệu tấn/năm. Trong đó, tại các nhà máy nhiệt điện than khu vực phía Bắc, tình hình tiêu thụ tro, xỉ tương đối tốt. Hầu hết các nhà máy đã ký hợp đồng với các đối tác bao tiêu. Điển hình là các nhà máy nhiệt điện Phả Lại, Ninh Bình, Thái Bình đã tiêu thụ hết lượng tro, xỉ.
Tại các tỉnh phía Nam, dù các nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) của EVN mới được đưa vào vận hành, nhưng cũng đã ký hợp đồng với các đối tác bao tiêu toàn bộ lượng tro xỉ. Tuy nhiên, trong thực tế, các đối tác này vẫn tiêu thụ số lượng chưa đáng kể.
PV: Có ý kiến cho rằng, tro, xỉ tại một số nhà máy nhiệt điện của EVN bán với giá cao, làm khó doanh nghiệp trong quá trình đàm phán và tiêu thụ?
Ông Nguyễn Tài Anh: Cần khẳng định rằng, mục tiêu chính của EVN là tiêu thụ hết toàn bộ lượng tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện trong dài hạn. Do đó, doanh thu từ việc bán tro, xỉ của không phải là mục tiêu cũng như ưu tiên hàng đầu của EVN.
Thực tế, việc lựa chọn các đối tác thu mua tro, xỉ, trước tiên, chúng tôi căn cứ vào năng lực và giải pháp khả thi cũng như thời gian hợp tác của các đơn vị, sau đó mới tính tới giá bán tro, xỉ. EVN đã và sẽ tiếp tục cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các DN có giải pháp tái sử dụng tro, xỉ hiệu quả được tiếp cận dễ dàng nguồn nguyên liệu này tại các nhà máy nhiệt điện than của Tập đoàn.
PV: Chất lượng tro, xỉ là vấn đề được các đối tác thu mua hết sức quan tâm. Xin ông cho biết, chất lượng tro, xỉ từ các nhà máy điện của EVN có phù hợp tái sử dụng làm nguyên liệu sản xuất các VLXD hay không?
Ông Nguyễn Tài Anh: Hiện các nhà máy nhiệt điện than của EVN đang sử dụng than nội địa và than nhập khẩu. Than nội địa chủ yếu là các loại than cám 5a, 5b và 6a có độ tro trung bình từ 29% đến 37,5%. Đối với các nhà máy điện sử dụng than nhập khẩu, loại than sử dụng là bituminous và sub-bituminous với độ tro trung bình là 6-7%.
Các nhà máy của EVN đã phối hợp với các đơn vị kiểm định độc lập trong và ngoài nước như VinaControl, JCoal (Nhật Bản) tổ chức lấy mẫu phân tích tro, xỉ. Căn cứ theo tiêu chuẩn TCVN 10302: 2014 về phụ gia hoạt tính tro bay dùng cho bê tông, vữa xây và xi măng và theo kết quả phân tích, tro, xỉ từ các nhà máy nhiệt điện của EVN có chung đặc điểm là chất thải rắn công nghiệp thông thường; được phép tái sử dụng phục vụ cho mục đích xây dựng. Đối với tro, xỉ than nội địa, cần phải tinh lọc để giảm hàm lượng carbon xuống <6% mới có thể sử dụng làm phụ gia xi măng.
Tại Hội thảo “Sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện than làm vật liệu xây dựng (VLXD) tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long” do Bộ Xây dựng tổ chức tháng 9/2017, các cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) và chuyên gia đã đánh giá, tro, xỉ của các NMNĐ than là nguồn nguyên liệu có giá trị đối với những ngành sản xuất như: Sản xuất VLXD, xây dựng công trình giao thông, san lấp mặt bằng...
PV: Xin ông cho biết, đâu là trở ngại lớn nhất khi tiêu thụ lượng tro, xỉ từ các NMNĐ của EVN?
Ông Nguyễn Tài Anh: Mặc dù tro, xỉ của các NMNĐ được đánh giá là chất thải rắn thông thường, phù hợp làm nguyên liệu cho ngành xây dựng, tuy nhiên, tới nay không có cơ quan QLNN nào được giao nhiệm vụ cấp chứng nhận tro, xỉ không phải là chất thải nguy hại. Do vậy, các đơn vị vẫn đang sử dụng kết quả thí nghiệm, hoặc giấy chứng nhận của Viện VLXD làm cơ sở hoạt động, như vậy là chưa đầy đủ thủ tục về mặt pháp lý.
Đồng thời, tại Khoản 2, Điều 31 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải, phế liệu, về thu gom, vận chuyển chất thải rắn công nghiệp thông thường (Nghị định 38) quy định “Các chủ xử lý chất thải nguy hại đã được cấp Giấy phép xử lý chất thải nguy hại được phép thu gom, vận chuyển chất thải rắn công nghiệp thông thường”, nhưng không quy định các đơn vị vận chuyển khác (không có giấy phép xử lý chất thải nguy hại) có được vận chuyển hay không. Điều này cũng gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp tiếp nhận, vận chuyển tro, xỉ.
Hiện nay, EVN gặp khó trong việc tiêu thụ tro, xỉ do các nhà máy điện của EVN tại khu vực phía Nam nằm xa thị trường tiêu thụ, dẫn đến cước phí vận chuyển cao, làm tăng giá thành sản phẩm, giảm tính cạnh tranh so với các VLXD truyền thống. Hơn nữa, doanh nghiệp và người dân miền Nam chưa có thói quen sử dụng VLXD từ tro, xỉ.
PV: Giải pháp khắc phục của EVN là gì, thưa ông?
Ông Nguyễn Tài Anh: Tập đoàn đang chủ động xây dựng hồ sơ mời xử lý tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện trong dài hạn, với mục tiêu lựa chọn được các đối tác có đủ năng lực, có giải pháp khả thi, sẵn sàng hợp tác với các NMĐ để tiêu thụ tro, xỉ lâu dài. EVN ưu tiên các đối tác đầu tư hạ tầng kỹ thuật tái sử dụng tro, xỉ để sản xuất các loại VLXD lâu dài.
Ngoài ra, tại các nhà máy điện của Tập đoàn tại Trung tâm Điện lực Duyên Hải và Vĩnh Tân, các tổng công ty phát điện cũng đã lập dự án đầu tư bổ sung hệ thống đường ống dẫn tro bay tại cảng, tạo thuận lợi cho các đối tác dễ dàng tiếp nhận, vận chuyển bằng đường biển, giảm chi phí vận chuyển, tăng khả năng tiêu thụ tro, xỉ của các nhà máy.
PV: Tập đoàn có kiến nghị gì với các cơ quan QLNN nhằm khơi thông những vướng mắc hiện nay trong việc tiêu thụ tro, xỉ?
Ông Nguyễn Tài Anh: EVN kiến nghị các cơ quan QLNN sớm ban hành, sửa đổi một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Cụ thể, sửa đổi Nghị định 38 và các Thông tư hướng dẫn liên quan, xác định tro, xỉ là hàng hóa thông thường trong vận chuyển, lưu thông. Đồng thời, cần xác định rõ, đơn vị có chức năng cấp chứng nhận tro, xỉ đạt tiêu chuẩn là hàng hóa/chất thải rắn thông thường; hướng dẫn quy trình, thủ tục xin cấp chứng nhận để các doanh nghiệp thực hiện.
Để khuyến khích phát triển thị trường tiêu thụ tro, xỉ tại Việt Nam, EVN cũng đề xuất bổ sung các quy định bắt buộc đối với các cơ quan QLNN trung ương và địa phương phải ưu tiên sử dụng sản phẩm sản xuất từ tro, xỉ trong các công trình xây dựng, san lấp… nhất lại tại các địa phương có các nhà máy nhiệt điện than. Cần có lộ trình ban hành quy định hạn chế và tiến tới cấm sản xuất vật liệu nung như kinh nghiệm của các nước. Đồng thời, cần có các cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế khác sử dụng các sản phẩm sản xuất từ tro, xỉ.
PV: Xin cảm ơn ông!