Anh hùng Lao động, TS. Thái Phụng Nê - nguyên Bộ trưởng Bộ Năng lượng
|
PV: Thưa ông, với tư cách là Bộ trưởng Bộ Năng lượng giai đoạn 1992-1995, ông có nhận xét gì về những bước tiến của ngành năng lượng Việt Nam và đóng góp của ngành đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước?
AHLĐ Thái Phụng Nê: Trước kia Bộ Năng lượng quản lý 2 ngành là Điện và Than, Ngành Dầu khí khi đó là Tổng cục Dầu khí trực thuộc Chính phủ. Sau này, thành lập Bộ Công nghiệp thì lĩnh vực dầu khí được chuyển về Bộ Công nghiệp.
Ngành Điện và Than của Việt Nam được hình thành từ rất sớm. Năm 1894, Việt Nam đã có nhà máy điện đầu tiên, là Nhà đèn Vườn hoa Hải Phòng. Ngành Than cũng đã có lịch sử khai thác gần 180 năm.
Tôi liệt kê như vậy để thấy rằng, mặc dù ngành Điện và Than của Việt Nam được hình thành từ rất sớm, nhưng để phát triển có một kết quả vượt bậc thì phải kể đến thời kỳ đất nước được giải phóng, nhất là sau khi Mỹ bãi bỏ cấm vận với Việt Nam.
Theo Nghị quyết của Ban Bí thư Trung ương, việc trọng yếu là phải phát triển năng lượng, điện phải đi trước một bước. Với tinh thần như vậy, phải nâng cao công suất khai thác than để cung ứng cho sản xuất điện, các ngành công nghiệp khác và phục vụ xuất khẩu để có nguồn ngoại tệ.
Trước đây, quy mô ngành Than rất nhỏ, nhưng vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, khai thác và chế biến than đã bắt đầu khởi sắc với sản lượng gần 10 triệu tấn/năm và đến nay đã đạt khoảng 40 triệu tấn/năm.
Đối với ngành Điện, mặc dù có lịch sử hàng trăm năm, tuy nhiên trong thời gian Pháp thuộc và chiến tranh, chúng ta hầu như không có gì. Năm 1954, công suất nhiệt điện ở miền Bắc vào khoảng 32,5MW. Sau 1954, ở miền Bắc có thêm nhiều nhà máy điện như Thủy điện Thác Bà (1964), Nhiệt điện Uông Bí (1961) với sự giúp đỡ của Liên Xô. Đây là sự phát triển mạnh mẽ ở phía Bắc trước khi Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Sau năm 1975, Liên Xô tiếp tục giúp đỡ Việt Nam xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình với công suất 1.920MW (năm 1979), Nhiệt điện Phả Lại 440MW (năm 1980).
Từ nền tảng đó, trong 15 năm trở lại đây, chúng ta đã có bước phát triển mạnh mẽ với hàng loạt công trình nguồn điện lớn như Thủy điện Sơn La, Lai Châu và nhiều thủy điện khác; hình thành các trung tâm điện lực như: Quảng Ninh, Vĩnh Tân, Duyên Hải… Đặc biệt, chúng ta đã tự chủ từ khảo sát, thiết kế, tư vấn, thi công, lắp đặt và quản lý vận hành. Chúng ta còn sang cả Lào để xây dựng các nhà máy thủy điện để đưa điện về Việt Nam. Cùng với đó là hệ thống truyền tải có quy mô lớn, rộng khắp, liên kết khu vực.
Đến nay, hệ thống điện đã lớn mạnh, đảm bảo cung cấp điện cho phát triển kinh tế đất nước. Hơn 99,65% hộ dân trên cả nước đã có điện, tỷ lệ này cao hơn rất nhiều nước trong khu vực. Điều đó cho thấy ngành năng lượng, trong đó có điện đã phát triển nhanh chóng và đóng góp to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Công trình Nhà máy Thủy điện Sơn La
|
PV: Vậy những mốc son của ngành Điện là gì, thưa ông? Và bài học kinh nghiệm từ những kết quả đó?
AHLĐ Thái Phụng Nê: Lịch sử ngành Điện có nhiều tự hào, trong đó phải kể đến 2 điểm son sáng chói đó là Thủy điện Hoà Bình (phát điện tổ máy 1 năm 1988 - PV) và đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1 (khánh thành tháng 5/1994 - PV).
Có thể khẳng định, khi có Thủy điện Hòa Bình thì chất lượng điện miền Bắc tốt hơn rất nhiều. Điện được đưa về đến các vùng nông thôn, phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp, thực hiện thành công chống lũ cho hệ thống sông Hồng, không còn tình trạng lũ lụt; điều tiết nước cho sản xuất nông nghiệp, sinh kế người dân phát triển.
Từ năm 1992, Nhà máy Thủy điện Hòa Bình phát điện thừa, miền Bắc không sử dụng hết trong khi miền Nam lại thiếu điện. Lúc đó Bộ Năng lượng đề xuất xây dựng đường dây 500kV Bắc - Nam nhằm giải quyết thiếu điện cho miền Nam.
Dư luận trái chiều rất nhiều, xây dựng một công trình với chiều dài 1.487 km đi qua rừng núi mà lại tuyên bố hoàn thành trong 2 năm, điều mà chưa nước nào trên thế giới đã làm, chứ nói gì Việt Nam vừa khôi phục sau chiến tranh, vẫn đang bị Mỹ cấm vận.
Lúc đó, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt nói rằng: kỹ thuật là do Bộ Năng lượng chịu trách nhiệm, quyết định xây dựng đường dây 500kV là của Thủ tướng. Tôi quyết định nếu không làm được hoặc thất bại tôi sẽ từ chức trước và không để ai cách chức tôi.
Vượt qua nhiều thách thức, khó khăn, và sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của ngành năng lượng, sau 2 năm công trình hoàn thành đã tạo trục xương sống cho hệ thống điện Việt Nam, giải quyết được tình trạng thiếu điện ở miền Trung và miền Nam, phục vụ đắc lực phát triển kinh tế đất nước. Và giờ chúng ta đã có tiếp mạch 2 và mạch 3.
Sau này, với Thủy điện Sơn La, Lai Châu, lúc đó với vai trò là đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ, Phó Trưởng ban chỉ đạo Nhà nước Thủy điện Sơn La - Lai Châu, sau khi các đơn vị báo cáo đảm bảo yếu tố kỹ thuật, đảm bảo chất lượng, nhiều vấn đề đã được tôi quyết định tại chỗ. Nhờ thế mà Thủy điện Sơn La đã về đích sớm 3 năm, Thủy điện Lai Châu 1 năm.
Theo tôi, để đạt được những kết quả như trên, bài học kinh nghiệm ở đây là tầm nhìn chiến lược, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu và sự quyết đoán, quyết tâm vì lợi ích chung của đất nước, dân tộc.
Công nhân sửa chữa vận hành đường dây 500kV Bắc - Nam |
PV: Theo ông, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, Việt Nam cần làm gì để duy trì, phát triển ngành năng lượng nói chung và ngành điện bền vững, tự chủ?
AHLĐ Thái Phụng Nê: Hiện cuộc khủng hoảng năng lượng đã và đang diễn ra, ảnh hưởng đến Việt Nam, do đó cần phải phát triển mạnh mẽ hơn nữa hệ thống năng lượng, đặc biệt là điện, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước bền vững gắn với mục tiêu tại Hội nghị COP26.
Theo tôi, trước hết chúng ta cần sớm phê duyệt các quy hoạch năng lượng, trong đó có Quy hoạch điện VIII để làm cơ sở triển khai sớm, nhất là những công trình cho đến năm 2025; tập trung tháo gỡ những khó khăn về thủ tục hành chính; áp dụng khoa học - công nghệ, phát triển năng lượng tái tạo, gắn liền với hệ thống truyền tải, gắn liền với hệ thống lưu trữ; nghiên cứu mở rộng các thủy điện lớn hiện hữu, phát triển thêm các thủy điện tích năng; khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng nhu cầu điện trước mắt vì hiện nguồn điện không còn dự phòng. Đồng thời triển khai đồng bộ các giải pháp kỹ thuật khác.
PV: Xin cảm ơn ông!