Bà Doãn Thị Mỹ Hạnh – Tổng giám đốc Công ty TNHH ANDRITZ Việt Nam
|
PV: Bà đánh giá như thế nào về vấn đề ứng dụng công nghệ tại các nhà máy thủy điện của EVN so với các nhà máy trên thế giới?
Bà Doãn Thị Mỹ Hạnh: ANDRITZ có mặt ở Việt Nam từ gần 30 năm trước. Chúng tôi đã được chứng kiến chặng đường phát triển rất ấn tượng của EVN nói riêng và Việt Nam nói chung.
Trong bức tranh tổng thể của lĩnh vực thuỷ điện - cụ thể là các nhà máy của EVN – chúng tôi cho rằng hầu hết các nhà máy này đều được trang bị những công nghệ tiệm cận như tại các nhà máy có cùng thời điểm xây dựng trên thế giới, được trang bị các hệ thống điều khiển tiên tiến.
Mặc dù vậy, các nhà máy hiện nay đều đang được khai thác một cách tương đối cục bộ trong vấn đề điều khiển. Điều này ít nhiều có những hạn chế nhất định trong vấn đề truyền thông công nghiệp khi bước vào thời kỳ công nghiệp 4.0 và kinh tế số.
Trong một vài năm trở lại đây, sự phát triển của CNTT (IT) đã giúp chúng ta có được tầm nhìn về khả năng khai thác hiệu quả hơn các nhà máy hiện hữu. Bên cạnh đó, các hệ thống điều khiển (AT) đã và đang bước vào chu kỳ thay thế, nâng cấp với những cập nhật đáng kể về công nghệ vận hành (OT) với mức độ tự động ngày càng cao.
Cùng với chiến lược phát triển đúng đắn và sự quyết tâm, quan tâm đầu tư của EVN, tôi cho rằng EVN sẽ tạo ra cơ hội để xây dựng những hạ tầng công nghệ không chỉ cho các nhà máy thủy điện mà còn các hệ thống khác như truyền tài, mua bán, đo đếm, điều độ... từ đó hình thành một hệ sinh thái đảm bảo phát triển bền vững lâu dài cho các nhà máy điện của EVN và hệ thống điện quốc gia, sẵn sàng tham gia vào nền kinh tế số.
PV: Số hóa trong lĩnh vực thủy điện sẽ mang lại những ích lợi như thế nào?
Bà Doãn Thị Mỹ Hạnh: Số hoá là bước phát triển tất yếu trong hầu hết các lĩnh vực công nghiệp nói chung và ngành Điện nói riêng. Thậm chí với ngành Điện, số hoá còn bắt đầu từ rất sớm khi chúng ta có những hệ thống điều khiển hiện đại đang được khai thác trong các nhà máy điện. Tuy nhiên, như đã chia sẻ ở trên, các nhà máy thủy điện đang hoạt động và được khai thác như những hệ thống cục bộ. Nói cách khác, chúng ta chưa khai thác hết giá trị của dữ liệu, chưa xây dựng được một hệ sinh thái ở quy mô tập đoàn - một hệ sinh thái mà các công nghệ AT, OT, IT, ET được kết nối, thu thập, phân tích, chia sẻ, khai thác và hỗ trợ lẫn nhau để phục vụ chiến lược phát triển bền vững lâu dài.
Số hóa đang trở thành một yếu tố không thể thiếu trong tất cả các giai đoạn phát triển, từ quy hoạch, thiết kế, xây dựng, vận hành, bảo trì và quản lý tài sản nhà máy thủy điện. Số hóa sẽ trở thành một công cụ mạnh mẽ để cải thiện quy trình ra quyết định cho các cấp quản lý và giúp tối ưu hóa việc quản lý tài nguyên toàn hệ thống.
Các công nghệ số hiện nay được ứng dụng rộng rãi trong tất cả các khâu của công trình thủy điện, từ thiết kế, thi công, sử dụng các công cụ mô phỏng kỹ thuật số; vận hành và bảo trì, kết hợp các công cụ, mô hình như máy học thông qua giám sát và phân tích tình trạng của thiết bị, tài sản. Nó mang lại giá trị không thể phủ nhận cho các mục tiêu an toàn và môi trường, chi phí vận hành và tác động gián tiếp đến lợi ích tài chính.
Về mặt thương mại, những lợi ích trước mắt của số hóa có thể được tóm tắt là giảm chi phí vận hành và bảo trì; nâng cao hiệu suất của nhà máy điện và lưới điện; có khả năng hỗ trợ rất tốt việc lập các kế hoạch bảo trì kết hợp với dữ liệu thủy văn và dự đoán sản lượng trong tương lai; giảm thời gian ngừng hoạt động cả trong và ngoài kế hoạch; kéo dài thời gian hoạt động của thiết bị/tài sản - do đó tối đa hóa hiệu quả đầu tư và mang lại giá trị thương mại bền vững.
Đại diện ANDRITZ Việt Nam chia sẻ các giải pháp tự động hóa tích hợp của nhà máy thủy điện tại Hội nghị Tự động hóa ngành Điện trong xu thế chuyển đổi số do EVN tổ chức vào tháng 4/2022
|
PV: Theo bà, có những khó khăn, thách thức nào trong lộ trình chuyển đổi số các nhà máy thủy điện của EVN?
Bà Doãn Thị Mỹ Hạnh: Điều này phụ thuộc góc nhìn của chúng ta. Việc chuyển đổi số và khai thác các sản phẩm của chuyển đổi số có thể gặp phải một số các rào cản và thách thức như: Khoảng cách về nhận thức và kỹ năng, một phần lực lượng lao động có thể lo ngại hoặc hoài nghi về hiệu quả của quá trình số hóa vì thiếu thông tin hoặc kiến thức chuyên môn về chuyển đổi số.
Yêu cầu chính đối với số hóa là sự đáp ứng đầy đủ của cơ sở hạ tầng không chỉ về công nghệ thông tin, mà còn là các cơ sở hạ tầng điều khiển, thu thập dữ liệu tại các nhà máy. Việc thiếu một trong các yếu tố này sẽ tạo ra một rào cản lớn. Ví dụ, an ninh và tài sản của nhà máy cần quan tâm đầu tư hợp lý vì nó có tầm quan trọng sống còn. Một cuộc tấn công mạng có thể ảnh hưởng đến không chỉ một hoặc nhiều nhà máy, mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống năng lượng quốc gia.
Cùng với đó, hành lang pháp lý hiện hành có thể chưa cho phép thực hiện các đổi mới hay áp dụng công nghệ chia sẻ dữ liệu. Việc xây dựng các quy định mới sẽ cần thời gian lâu hơn chúng ta đang tính toán. Ngoài ra, do công nghệ số hóa ở Việt Nam còn tương đối mới so với châu Âu, Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc, nên chi phí có thể cản trở sự phát triển của số hóa.
PV: Để giải quyết các vấn đề này cần có những hành động gì để tối đa hoá lợi ích từ việc chuyển đổi số trong lĩnh vực thuỷ điện tại Việt Nam?
Bà Doãn Thị Mỹ Hạnh: Không có một công thức, giải pháp hay hành động đơn lẻ nào đáp ứng và phù hợp được cho tất cả các yêu cầu.
Trong quá trình triển khai chuyển đổi số, bên cạnh việc hợp tác với các đơn vị cung cấp công nghệ uy tín, sự tham gia của các lãnh đạo cấp cao là rất quan trọng. Để chuyển đổi số thành công, tất cả các bên liên quan phải có một tầm nhìn chung và biết đóng góp giá trị của họ cho tầm nhìn này. Do đó, phải có cam kết mạnh mẽ từ các lãnh đạo cấp cao để thúc đẩy sự thay đổi và đảm bảo rằng tất cả đơn vị khai thác, vận hành đều thích ứng và khai thác hiệu quả cách thức hoạt động mới sau quá trình chuyển đổi số với sự trợ giúp của các sản phẩm công nghệ kỹ thuật số. Nó liên quan đến việc thay đổi văn hóa và đổi mới tư duy của lực lượng nhân sự tại các nhà máy, công ty.
Việc loại bỏ hoặc giảm thiểu các rào cản, thách thức một cách phù hợp có thể là một hướng đi cần thiết. Ví dụ, ANDRITZ - bằng giải pháp DiOMera của mình đã giúp các khách hàng đạt được các mục tiêu chuyển đổi số thông qua việc giải quyết những câu hỏi: Làm thế nào để khai thác hết tiềm năng của các nhà máy thủy điện hiện có? Khi nào và cần phải làm gì để đảm bảo những nhà máy này tránh hoặc hạn chế gặp phải các sự cố, với sự đánh đổi rủi ro - lợi ích tốt nhất? Khi nào thì nên thay thế thiết bị hơn là sửa chữa?
PV: ANDRITZ có thể chia sẻ kinh nghiệm gì với EVN về triển khai chuyển đổi số tại các nhà máy thủy điện?
Bà Doãn Thị Mỹ Hạnh: ANDRITZ có kinh nghiệm triển khai các giải pháp và dịch vụ kỹ thuật số trong lĩnh vực vận hành và bảo trì trong các nhà máy điện, bao gồm đầy đủ các hoạt động quản lý vận hành và bảo trì trực tiếp tại các nhà máy, cho đến các dịch vụ hỗ trợ thông qua các nền tảng kỹ thuật số từ xa.
Với những kinh nghiệm tích lũy của ANDRITZ, đội ngũ chuyên gia DiOMera kỹ thuật số “ảo” có thể mang lại lợi ích trực tiếp cho EVN. Hơn nữa, đào tạo trong công việc thường là giải pháp tốt nhất để phát triển các năng lực cần thiết và do đó, từng bước chuyển từ các phương pháp vận hành và bảo dưỡng tiêu chuẩn truyền thống sang phương pháp tiếp cận tổng thể tiên tiến sử dụng các công nghệ kỹ thuật số hiệu quả.
ANDRITZ có thể giúp EVN triển khai và tùy chỉnh các giải pháp số trong lĩnh vực O&M phù hợp với điều kiện cụ thể của EVN. Với thương hiệu công nghệ Metris, ANDRITZ cung cấp danh mục các giải pháp chuyên sâu và sản phẩm kỹ thuật số thông minh, trong đó phải kể đến sản phẩm Metris DiOMera đang được áp dụng rất thành công tại nhiều nước trên thế giới với tổng công suất đến nay là hơn 17GW.
Mục tiêu rõ ràng của chúng tôi là luôn gần gũi với khách hàng của mình để đảm bảo dịch vụ tốt nhất và nhanh chóng nhất.
PV: Xin cảm ơn bà!
ANDRITZ:
- Là nhà cung cấp công nghệ, thiết bị đến từ châu Âu.
- Hơn 180 năm thiết kế chế tạo; cung cấp công nghệ, thiết bị cho các nhà máy thuỷ điện trên thế giới.
- Thế mạnh: Quản lý vận hành và sửa chữa bảo dưỡng các nhà máy thủy điện.
|
Xuân Tiến
Share