Tham dự buổi làm việc có ông Lê Quang Dũng – Phó Tổng giám đốc TKV, ông Nguyễn Đình Phúc – Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Đông Bắc.
Báo cáo tại buổi làm việc, ông Tạ Tuấn Anh - Phó Trưởng ban Kỹ thuật – Sản xuất EVN cho biết: Cuối năm 2019, các đơn vị của EVN đã thực hiện ký các hợp đồng than dài hạn và hợp đồng than 2020 với TKV và Tổng công ty Đông Bắc. Trong đó 100% than TKV cấp cho các NMNĐ của EVN là than pha trộn, riêng NMNĐ Uông Bí duy trì cấp trung bình 48.000 tấn/tháng than sản xuất trong nước.
Tổng khối lượng than theo hợp đồng dài hạn TKV cấp là 19,2 triệu tấn than/năm. Tổng khối lượng than dài hạn Tổng công ty Đông Bắc cấp là 5,75 triệu tấn/năm.
Theo đánh giá của EVN, tình hình cung cấp than của TKV cho các NMNĐ của EVN cơ bản đạt khối lượng theo các hợp đồng đã ký. Khối lượng than đã cấp đến hết ngày 31/8/2020 đạt 13,06 triệu tấn, bằng 97,97% tổng khối lượng 8 tháng đầu năm theo hợp đồng. Tổng công ty Đông Bắc đạt 4,95 triệu tấn, bằng 113,79% so với hợp đồng 8 tháng đầu năm.
Theo tính toán của EVN, khối lượng theo hợp đồng còn lại của các nhà máy khoảng 8,2 triệu tấn, có thể đáp ứng được nhu cầu vận hành tại các nhà máy từ nay đến hết năm 2020 và tồn kho chuẩn bị cho năm 2021.
Phó Tổng giám đốc EVN Ngô Sơn Hải phát biểu tại buổi làm việc
|
Phó Tổng giám đốc EVN Ngô Sơn Hải đánh giá cao sự phối hợp của TKV và Tổng công ty Đông Bắc, trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, qua đó đã đảm bảo được mục tiêu cung cấp điện an toàn, ổn định của EVN.
Phó Tổng giám đốc EVN Ngô Sơn Hải đề nghị TKV và Tổng công ty Đông Bắc căn cứ vào khối lượng than trong các hợp đồng dài hạn đã ký, có kế hoạch khai thác than trong nước và nhập khẩu than dài hạn với nguồn than ổn định để pha trộn, đảm bảo chất lượng và khối lượng than đưa vào pha trộn được ổn định.
Một số vấn đề khác được lãnh đạo EVN nhấn mạnh như: TKV và Tổng công ty Đông Bắc nâng cấp, cải tiến các hệ thống trộn than, quản lý chặt chẽ khâu trộn than để chất lượng than trộn được đồng đều. 6 chỉ số than hiện hữu trong hợp đồng mua bán than, TKV, Tổng công ty Đông Bắc phải cam kết và duy trì ở mức trung bình như trong tiêu chuẩn Việt Nam như hiện nay. Đối với các hợp đồng mua bán than của từng nhà máy nhiệt điện từ năm 2021, cần bổ sung các chỉ số nhiệt độ nóng chảy của tro xỉ, hàm lượng Hydro, sắt oxit,..., TKV phối hợp với EVN thành lập 1 tổ công tác chung để cùng xây dựng, ban hành bộ chỉ tiêu chất lượng than cho các NMNĐ. Tăng cường kiểm soát chất lượng than, đảm bảo chất lượng đồng đều, theo đúng yêu cầu của hợp đồng và phù hợp với công nghệ của các nhà máy nhiệt điện.
Kỹ sư vận hành Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn
|
Tại buổi làm việc, lãnh đạo TKV cho biết, thời gian qua có một tỷ lệ nhất định than pha trộn không đều do công nghệ pha trộn chưa được đảm bảo. Tập đoàn đã chỉ đạo các đơn vị áp dụng công nghệ mới để đảm bảo chất lượng trộn than. Do ảnh hưởng của COVID-19 dẫn tới nhu cầu điện sản xuất giảm, nên lãnh đạo TKV mong muốn EVN cung cấp thông tin sớm về tình hình nhu cầu than từ nay đến cuối năm và năm 2021 để chủ động sản xuất nhằm cung cấp than tốt nhất cho các nhà máy điện của EVN. Về những tồn tại trong chất lượng than phan trộn, lãnh đạo TKV cam kết trong năm 2021 sẽ giải quyết dứt điểm, đảm bảo chất lượng than được tốt nhất cho các nhà máy điện của EVN.
Lãnh đạo Tổng công ty Đông Bắc cũng cam kết sẽ cung cấp đúng, đủ số lượng, chất lượng than theo hợp đồng.
Theo đánh giá của Ban Kỹ thuật – Sản xuất EVN, ưu điểm của than pha trộn là xu hướng tốt, tất yếu cho các NMNĐ. Tạo điều kiện cho các đơn vị cung cấp than chủ động trộn than theo các chỉ tiêu kỹ thuật tương đương than thiết kế giúp vận hành các tổ máy ổn định, kinh tế. So với than trong nước, than trộn có những ưu điểm như: tiết kiệm được điện tự dùng tại hệ thống nghiền than, nâng cao hiệu suất của lò hơi. Tuy nhiên, than pha trộn cũng có một số hạn chế như chất lượng than trộn không đồng đều, nguồn than trộn không ổn định,...