Tổng quan về phát triển nhiệt điện than ở Việt Nam

08:00, 09/08/2019

Số lượng, công suất và công nghệ các nhà máy nhiệt điện than của Việt Nam có nhiều biến động, thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy nhiên, dù ở giai đoạn nào, nhiệt điện than cũng là nguồn điện không thể thiếu.

Thời kỳ trước năm 1975

Nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) than đầu tiên của Việt Nam là Nhà đèn Vườn hoa, được người Pháp xây dựng tháng 2/1894 tại Hải Phòng. Tiếp đó, tại khu vực Bắc Bộ, Trung Bộ, các nhà máy nhỏ, quy mô không quá 10 MW, thông số hơi thấp lần lượt được xây dựng. 

Tới tháng 10/1954, tổng công suất nguồn điện miền Bắc chỉ khoảng 31,5 MW với sản lượng điện khoảng 53 triệu kWh/năm. Để đáp ứng nhu cầu điện năng, cùng với việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp các nhà máy điện do Pháp để lại, trong các năm 1955 - 1960, Việt Nam đã khởi công xây dựng và đưa vào vận hành một số NMNĐ than mới có công suất nhỏ và vừa, thông số hơi trung áp (áp suất/nhiệt độ đến 3,43 MPa (35 bar)/435 độ C), công nghệ lò ghi xích và lò than phun.

Năm 1961, với sự giúp đỡ của Liên Xô, Việt Nam khởi công xây dựng NMNĐ Uông Bí - nguồn điện chủ lực của miền Bắc. Bên cạnh đó, Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình công suất 100 MW do Trung Quốc giúp đỡ cũng được đưa vào vận hành từ 1974. Đây là những nhà máy điện than có công suất lên tới hàng trăm MW đầu tiên do Việt Nam đầu tư xây dựng. 

Tuy nhiên, trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ, các nhà máy điện luôn là trọng điểm bắn phá của máy bay Mỹ. Mặc dù CBCNV ngành Điện đã không ngại hy sinh, bám lò, bám máy, duy trì sản xuất, nhưng do hầu hết các cơ sở phát điện ở miền Bắc đều bị bắn phá ác liệt, nhiều nhà máy bị hư hỏng nặng, có những nhà máy bị phá hoại hoàn toàn, nên sản lượng nhiệt điện than liên tục giảm. Ở miền Nam, đến cuối năm 1974, có một số NMNĐ than được vận hành với tổng công suất hơn 250 MW, trong đó, quy mô lớn nhất là Nhiệt điện Thủ Đức (165 MW).

Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí

Thời kỳ 1976 - 1990

Sau khi đất nước thống nhất, Việt Nam bắt đầu thực hiện Tổng sơ đồ phát triển điện giai đoạn I từ năm 1981 - 1985. Để khắc phục tình trạng mất cân đối trầm trọng về cung cầu điện, miền Bắc tập trung đẩy nhanh tiến độ xây dựng NMNĐ than Phả Lại 1 gồm 4 tổ máy (4x110 MW) và thực hiện sửa chữa, nâng cấp các nhà máy khác. Nhờ được bổ sung, củng cố nguồn phát điện, trong giai đoạn 1980 - 1990, sản lượng điện sản xuất của các nhà máy nhiệt điện than luôn chiếm khoảng 40% tổng sản lượng toàn hệ thống điện. 

Thời kỳ 1991 - 2010

Thời kỳ này, Việt Nam tập trung khai thác mạnh mẽ nguồn thủy điện. Trong suốt 20 năm, Việt Nam chỉ có thêm 5 NMNĐ quy mô vừa và lớn được đưa vào vận hành thương mại. Do vậy, sản lượng từ nguồn nhiệt điện than trong giai đoạn này chỉ chiếm 10-16% tổng sản lượng điện toàn quốc.

Thời kỳ từ 2011 đến nay

Theo điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011- 2020 có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII điều chỉnh), đến năm 2020, tổng công suất các nhà máy nhiệt điện than khoảng 26.000 MW (chiếm 42,7% công suất nguồn toàn hệ thống), sản xuất khoảng 131 tỷ kWh (chiếm 49,3% sản lượng điện). Theo đó, từ 2011, hàng loạt NMNĐ than công suất lớn (600 - 1.200 MW) trên cả nước liên tục được đưa vào vận hành. Nhiệt điện than ngày càng khẳng định vai trò là nguồn điện chủ lực, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. 

Cùng với sự phát triển cả về số lượng nhà máy và quy mô công suất, công nghệ nhiệt điện than cũng ngày càng hiện đại, cho phép vận hành các tổ máy với hiệu suất, độ an toàn và tính kinh tế cao. Nhiều NMNĐ than được đầu tư công nghệ đốt than phun với thông số hơi cận tới hạn, siêu tới hạn... Việt Nam cũng đã ứng dụng thành công hệ thống điều khiển và tự động hóa các NMNĐ than.

Đặc biệt, các NMNĐ than được đầu tư công nghệ xử lý môi trường hiện đại, đạt hiệu quả cao như: Hệ thống ESP lọc bụi tĩnh điện, khử SOx, NOx…, đáp ứng các quy định theo tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam. Vấn đề đảm bảo môi trường trong quá trình vận hành NMNĐ than ở Việt Nam ngày càng được quan tâm và thực hiện rất hiệu quả. 

Các nhà máy nhiệt điện than được đưa vào vận hành từ năm 1981 đến nay:

Tên nhà máy

Công suất đặt        (MW)

Năm vận hành thương mại

Phả Lại 1

440

1983- 1986

Phả Lại 2

600

2002- 2003

Na Dương

110

2005

Cao Ngạn

110

2007

Cẩm Phả 1

330

2010

Sơn Động

220

2010

Uông Bí mở rộng

300

2011

Quảng Ninh 1

600

2011

Hải Phòng 1

600

2011

Cẩm Phả 2

330

2011

Mạo Khê

440

2012

Uông Bí mở rộng 2

330

2013

Nghi Sơn 1

600

2013

Quảng Ninh 2

600

2014

Hải Phòng 2

600

2014

Vũng Áng 1

1200

2014- 2015

Vĩnh Tân 2

1244

2015

Duyên Hải 1

1245

2015

An Khánh

120

2015

Mông Dương 2 (BOT)

1242

2015

Duyên Hải 3

1245

2016

Mông Dương 1

1080

2016

Vĩnh Tân 4

1200

2017

Thái Bình 1

600

2017

Thăng Long

620

2018

Vĩnh Tân 1 (BOT)

1200

2018


Theo TCĐL Chuyên đề Quản lý & Hội nhập

Share

CBCNV EVNCPC ứng trực 24/24, "canh điện" tại vùng mưa lũ, ngập sâu

CBCNV EVNCPC ứng trực 24/24, "canh điện" tại vùng mưa lũ, ngập sâu

Trước diễn biến mưa lũ cực đoan, CBCNV Tổng công ty Điện lực miền Trung (EVNCPC) ứng trực ngày, đêm. Ở những nơi ngập sâu, lực lượng kỹ thuật buộc phải sa thải phụ tải kịp thời để đảm bảo tuyệt đối an toàn cho người dân; đồng thời bám sát từng điểm ngập, sẵn sàng khôi phục điện ngay khi nước rút và đảm bảo các điều kiện an toàn.


Công ty Cổ phần Thủy điện Sông Ba Hạ khẩn trương chuẩn bị phương án vận hành điều tiết nước qua tràn đúng quy trình

Công ty Cổ phần Thủy điện Sông Ba Hạ khẩn trương chuẩn bị phương án vận hành điều tiết nước qua tràn đúng quy trình

Trước tình hình mưa lũ tại các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Khánh Hòa đang diễn biến rất phức tạp, Công ty Cổ phần Thủy điện Sông Ba Hạ (SBH) đã chủ động triển khai công tác điều tiết nước qua tràn theo đúng Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Ba và thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Ban Chỉ huy Phòng thủ dân sự – Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Đắk Lắk.


Thợ điện EVN kịp thời cứu một người dân bị lũ cuốn trôi tại Gia Lai

Thợ điện EVN kịp thời cứu một người dân bị lũ cuốn trôi tại Gia Lai

Chiều 18/11/2025, trong quá trình xử lý sự cố lưới điện sau bão, tại khu vực tràn Lạc Điền (thôn Lạc Điền, xã Tuy Phước Đông, Gia Lai), anh Lê Thanh Tấn – Tổ trưởng Tổ Quản lý kỹ thuật, Đội Quản lý Điện Tuy Phước, Công ty Điện lực Gia Lai đã kịp thời cứu một người dân bị nước lũ cuốn trôi.


Thư chúc mừng của Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên EVN nhân Nhà giáo Việt Nam (20/11)

Thư chúc mừng của Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên EVN nhân Nhà giáo Việt Nam (20/11)

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, đồng chí Đặng Hoàng An – Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã gửi Thư chúc mừng tới các thầy cô giáo, lãnh đạo và CBCNV tại các Trường Cao đẳng Điện lực, cùng đội ngũ giảng viên nội bộ trong toàn Tập đoàn.


Thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ 16.100 m3/s ngày 19/11, vượt lũ lịch sử 1993 và câu hỏi về vai trò của thủy điện?

Thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ 16.100 m3/s ngày 19/11, vượt lũ lịch sử 1993 và câu hỏi về vai trò của thủy điện?

Rạng sáng 19/11/2025, nước trên sông Ba dâng nhanh, cuồn cuộn đổ về vùng hạ du. “Nước lên nhanh quá, chỉ trong vài giờ, sân nhà tôi đã ngập hơn nửa mét” - ông Nguyễn Thành Hòa, xã Hòa Hội (Phú Hòa) kể lại trong lúc đang cùng gia đình dọn dẹp sau lũ. Cùng lúc đó, Công ty Thủy điện Sông Ba Hạ thông báo tăng lưu lượng xả lên tới 16.100 m³/s - mức cao nhất từ khi Nhà máy vận hành, thậm chí vượt cả các trận lũ năm 1993 - mốc mà nhiều người Phú Yên vẫn nhắc đến với nỗi kinh hoàng. Việc xả lũ lớn, các xã vùng trũng ở Phú Hòa, Đông Hòa, Sơn Hòa ngập sâu, giao thông bị chia cắt. Người dân kịp chạy lũ, nhưng nhiều diện tích hoa màu, gia súc, vật dụng gia đình không thể cứu… Dưới đây là tổng hợp, phân tích, nhận định của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam.