Ông Nguyễn Hữu Chỉnh
|
- PV: Thưa ông, vì sao chúng ta lại thực hiện nghiên cứu, tính toán mở rộng Nhà máy Thủy điện Tuyên Quang trên sông Gâm?
- Ông Nguyễn Hữu Chỉnh: Nhà máy Thuỷ điện (NMTĐ) Tuyên Quang được xây dựng phục vụ 3 nhiệm vụ chính gồm: Tạo dung tích của hồ chứa 1 tỷ m3 phòng chống lũ cho Đồng bằng sông Hồng và thị xã Tuyên Quang (nay là TP Tuyên Quang); tạo nguồn điện cung cấp cho lưới điện quốc gia; cung cấp nước vào mùa khô cho Đồng bằng sông Hồng. Như vậy, đối với NMTĐ Tuyên Quang, nhiệm vụ phát điện chỉ đứng thứ 2, nhưng nhà máy cũng đóng góp sản lượng lớn cho hệ thống điện quốc gia với công suất đặt 342MW, sản lượng điện trung bình hàng năm là gần 1,33 tỷ kWh.
NMTĐ Tuyên Quang được vận hành trong thời kỳ hệ thống điện quốc gia chỉ có thủy điện là nguồn chính, các NMTĐ lúc đó đảm bảo cung cấp 50% - 60% sản lượng điện trên hệ thống, có nghĩa là các nhà máy thủy điện đóng góp cho tất cả các vị trí của biểu đồ phụ tải, bao gồm cả phần “đáy”, phần “thân” và phần “đỉnh”.
Thực tế, sau 11 năm NMTĐ Tuyên Quang đi vào vận hành (2008 - 2019), chỉ có 3 năm hồ thủy điện Tuyên Quang không xả lũ là những năm có tình hình thời tiết rất khô hạn. Các năm còn lại hồ đều xả nước từ 1 đến 3 đợt, cá biệt có năm 2017 hồ Tuyên Quang phải xả tới 6 đợt. Những năm phải xả lũ, chúng ta dễ dàng xác định được giá trị năng lượng bị mất đi, gây lãng phí tài nguyên, giảm kinh tế. Đây cũng là cơ sở để chúng ta tính đến việc mở rộng nhà máy.
- PV: Khi mở rộng NMTĐ Tuyên Quang, chúng ta có thể đạt được những lợi ích gì, thưa ông?
- Ông Nguyễn Hữu Chỉnh: Giá trị của thủy điện không chỉ đơn thuần là sản lượng điện (số kWh) phát ra, mà còn ở giá trị công suất đáp ứng trong hệ thống điện và khả năng chạy điều tần. Sản lượng điện đáp ứng về số lượng, còn công suất và điều tần đáp ứng về chất lượng. Số lượng và chất lượng đều có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, yếu tố chất lượng có yêu cầu ngày càng cao, nhất là trong thời kỳ phát triển kinh tế. Khi khai thác phần năng lượng xả thừa là ta đã đóng góp thêm phần năng lượng của dòng sông cho hệ thống điện, nhưng đồng thời cũng cung cấp thêm công suất cho hệ thống, đáp ứng phụ tải giờ cao điểm và dự phòng sự cố, tăng thêm khả năng điều tần cho hệ thống. Nếu mở rộng NMTĐ Tuyên Quang sẽ đáp ứng một phần yêu cầu đó.
Hiện nay, các nguồn thủy điện lớn của nước ta đã khai thác hết, nhiệt điện than phụ thuộc vào nhiên liệu đầu vào, các nguồn năng lượng tái tạo khác như điện gió và điện mặt trời là các giải pháp bổ sung năng lượng cho nhu cầu điện cũng sẽ được phát triển. Do đó, cơ cấu nguồn điện có sự thay đổi đáng kể. Từ chỗ, nguồn thủy điện chiếm tỷ trọng lớn, đến nay chỉ còn hơn 30% và cho đến năm 2030 dự báo chỉ còn chiếm khoảng hơn 16%. Với cơ cấu này, nguồn thủy điện sẽ có vai trò mới, quan trọng không kém so với trước đây trong hệ thống điện Việt Nam. Thủy điện có thể đáp ứng ngay yêu cầu phụ tải, do đó sẽ hợp lý khi vận hành, đáp ứng phần phủ “đỉnh” của biểu đồ phụ tải.
Số giờ phụ tải “đỉnh” của hệ thống điện Việt Nam vào khoảng từ 2.000 - 2.500 giờ/ năm, các nhà máy thủy điện có đủ điều kiện vận hành “phủ đỉnh” nên lựa chọn số giờ sử dụng công suất đặt trong khoảng này sao cho hiệu quả. Chỉ có các thủy điện có hồ chứa đủ lớn - điều tiết dài hạn mới đủ điều kiện tham gia vận hành “phủ đỉnh”. Do thời gian “đỉnh” của phụ tải không kéo dài và thay đổi liên tục, nên đầu tư nguồn điện chỉ để đáp ứng yêu cầu này thường rất đắt, dẫn đến giá thành sản xuất điện khi đáp ứng cho giờ cao điểm hay phần “đỉnh” phụ tải thường cao hơn nhiều lần so với giờ bình thường. Kinh nghiệm từ các nước phát triển, giá trị này cao hơn từ 5 - 9 lần. Thủy điện Tuyên Quang có hồ chứa điều tiết đủ lớn, hoàn toàn đủ khả năng để tham gia vận hành “phủ đỉnh” do đó cần được mở rộng để tăng cường công suất cho hệ thống.
Toàn cảnh Nhà máy Thủy điện Tuyên Quang
|
- PV: Theo tính toán của PECC1, nếu mở rộng NMTĐ Tuyên Quang, công suất dự kiến bao nhiêu là phù hợp, thưa ông?
- Ông Nguyễn Hữu Chỉnh: Công suất cho Thủy điện Tuyên Quang mở rộng phù hợp hiện nay là khoảng 100 - 150MW, tương ứng với sản lượng điện tăng thêm khoảng 37,6 - 43 triệu kWh vào mùa lũ và chuyển đổi điện năng từ giờ thấp điểm (giá 700 đồng/kWh) lên giờ cao điểm (2.658 đồng/kWh) là 88 đến 120 triệu kWh. Khi đó những lợi ích do dự án mang lại cũng rất ý nghĩa. Đó là bổ sung cho hệ thống điện khoảng 37,6 đến 43 triệu kWh mùa lũ, giảm giá thành phát điện chung của hệ thống do đảm nhận phần phụ tải “đỉnh” so với sử dụng nguồn phát khác, đồng thời tăng thêm công suất dự phòng sự cố.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi ngày càng có nhiều nhà máy điện mặt trời đi vào hoạt động (có thể chiếm đến 15-20% của hệ thống). Tuy nhiên, đây là những nguồn điện thiếu ổn định và cần nguồn dự phòng công suất của hệ thống tránh rã lưới. Phần mở rộng thủy điện cũng rất thân thiện với môi trường, là năng lượng sạch, đồng thời không làm tăng thêm tổn thất do ngập lụt, giảm được lượng phát thải do không phải đốt nhiên liệu hóa thạch.
- PV: Theo ông, khi triển khai dự án này sẽ có những thuận lợi, khó khăn gì?
- Ông Nguyễn Hữu Chỉnh: Thuận lợi có nhiều, PECC1 là đơn vị tư vấn thiết kế NMTĐ Tuyên Quang, nên chúng tôi có đầy đủ tài liệu thiết kế trước đây. Các kỹ sư PECC1 hiểu rõ về công trình này, các điều kiện thực tế tại hiện trường, như điều kiện địa chất, thủy văn và mặt bằng. Hiện nay, NMTĐ Tuyên Quang ủng hộ và EVN cũng đồng tình cho triển khai nghiên cứu. Mấu chốt nhất là hệ thống điện Việt Nam đang rất cần nguồn thủy điện mới bổ sung có khả năng phát công suất lớn phủ đỉnh, vì các nguồn năng lượng tái tạo tham gia vào hệ thống điện ngày càng nhiều, nhưng tính rủi ro cao do phụ thuộc vào các điều kiện thiên nhiên.
Khó khăn lớn nhất khi triển khai nghiên cứu mở rộng NMTĐ Tuyên Quang cũng như các dự án mở rộng thủy điện khác chính là cơ chế giá điện cho phần điện năng của NMTĐ mở rộng. Mục tiêu của NMTĐ Tuyên Quang mở rộng là chuyển đổi điện năng từ giờ thấp điểm mà nhà máy đang phát sang phát giờ cao điểm (phủ đỉnh biểu đồ phụ tải), nên giá điện của nhà máy mở rộng phải được tính theo giá cao điểm của hệ thống.
Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có quyết định chính thức về giá điện cao điểm, thấp điểm cho các dự án mở rộng (nhất là các dự án >30 MW), nên việc xác định hiệu quả kinh tế của dự án là rất khó khăn. Đây chính là điểm mà cơ chế quản lý chưa theo kịp diễn biến nhu cầu thực tiễn của hệ thống điện Việt Nam.
- PV: Xin cảm ơn ông!
Để triển khai dự án, PECC 1 kiến nghị:
- Các cơ quan quản lý nhà nước sớm ban hành chính sách về giá điện cho các dự án NMTĐ mở rộng, tạo hành lang pháp lý làm cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế các dự án điện.
- EVN và Công ty Thủy điện Tuyên Quang sớm triển khai nghiên cứu các phương án mở rộng nhà máy để khi có thủ tục pháp lý chính thức có thể sớm triển khai, thực hiện.
- Đơn vị lập Quy hoạch điện VIII cần sớm bổ sung nguồn mới là các dự án thủy điện mở rộng vào quy hoạch, đảm bảo tính an toàn của toàn hệ thống cũng là cơ sở để các nhà máy triển khai được ngay khi có chủ trương của các cấp quản lý. |