Bộ Công Thương đang xây dựng Thông tư quy định định mức tiêu hao năng lượng trong ngành chế biến thủy sản với 2 sản phẩm chủ đạo là tôm đông lạnh và cá da trơn đông lạnh.
|
Chia sẻ về tình hình tiêu thụ năng lượng trong hoạt động sản xuất công nghiệp, ông Trịnh Quốc Vũ – Phó Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và phát triển bền vững (Bộ Công Thương) cho hay: Công nghiệp là ngành sử dụng nhiều năng lượng nhất trong các ngành kinh tế của Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Công Thương, tình hình tiêu thụ năng lượng tại Việt Nam cơ cấu theo ngành như sau: Ngành công nghiệp 47,3%, giao thông vận tải 29,6%, dân dụng 15,1%, phi năng lượng 3,4%, thương mại dịch vụ 3,1%, và nông nghiệp 1,6%.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Cụ thể, trong lĩnh vực công nghiệp, quy trách nhiệm của các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm; ban hành các thông tư quy định mức tiêu thụ năng lượng cho các ngành công nghiệp trọng điểm; hỗ trợ tiết kiệm năng lượng và xây dựng hệ thống quản lý năng lượng…
Cường độ năng lượng (năng lượng để sản xuất ra một đơn vị GDP) trong nền kinh tế nói chung và trong ngành công nghiệp nói riêng đã giảm đi trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, vẫn còn ở mức cao, hiện cao hơn 1,4 lần so với Thái Lan và 1,6 lần so với Malaysia. Trong tương lai chúng ta phải nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong nền kinh tế Việt Nam cũng như trong ngành công nghiệp và nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN.
Đối với ngành thủy sản, hiện Bộ Công Thương đang xây dựng Thông tư quy định định mức tiêu hao năng lượng trong ngành chế biến thủy sản với 2 sản phẩm chủ đạo là tôm đông lạnh và cá da trơn đông lạnh. Dự kiến sẽ trình Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt ban hành trong năm 2018. Theo đó, dự thảo thông tư quy định mức tiêu hao năng lượng giai đoạn 2019-2025 sản phẩm cá da trơn là 1.050 kWh/tấn sản phẩm cá tương đương, tôm 2.050 kWh/tấn sản phẩm tôm tương đương; giai đoạn 2026 – 2030, sản phẩm cá da trơn là 900 kWh/tấn sản phẩm cá tương đương và tôm là 1.625 kWh/tấn sản phẩm tôm tương đương. Cũng theo ông Trịnh Quốc Vũ, ngành thủy sản là ngành tiêu hao nhiều năng lượng, lựa chọn tôm và cá da trơn vì 2 sản phẩm này dễ quy định về định mức tiêu hao năng lượng.
Chia sẻ về kết quả kiểm toán năng lượng đối với sản phẩm tôm và cá da trơn, ông Đỗ Kim Cương – Chuyên gia tư vấn về sử dụng năng lượng hiệu quả ngành thủy sản – cho hay: Hai tiểu ngành này đều có tiềm năng tiết kiệm điện cao, 41% đối với cá và 49% đối với tôm. Nguyên nhân dẫn đến lãng phí điện bao gồm cả điều hành sản xuất vận hành bảo dưỡng thiết bị cũng như hệ thống lạnh, chất lượng thiết bị. Trong đó, phần lãng phí do điều hành sản xuất, vận hành thiết bị vẫn là lớn nhất. Đối với cá tra, 65% điện lãng phí là do điều hành sản xuất, vận hành bảo dưỡng thiết bị và do chạy non tải, chỉ có 35% là do bản thân thiết bị. Đối với tôm, 59% điện lãng phí là do điều hành sản xuất, vận hành bảo dưỡng thiết bị và do chạy non tải, chỉ có 41% là do bản thân thiết bị. Tổng tiêu thụ 2 tiểu ngành 953 triệu kWh, tiềm năng tiết kiệm 296 triệu kWh (45% so với định mức).
Ông Cương cho hay, với 3 nhóm giải pháp gồm: Hoàn thiện quy trình điều hành sản xuất quản lý tiêu thụ điện theo hướng tiết kiệm năng lượng; hoàn thiện quy trình vận hành thiết bị lạnh theo hướng tiết kiệm năng lượng; sửa chữa bảo dưỡng thiết bị lạnh; thiết kế lắp đặt lại hệ thống lạnh; các thiết bị ngoại vi.
Theo ông Cương, với các giải pháp không tốn chi phí đầu tư hoặc tốn rất ít chi phí đầu tư có thể giảm đáng kể lượng điện tiêu thụ trong ngành thủy sản đông lạnh. Tổng tiêu thụ ngành thủy sản đông lạnh ước tính khoảng 2 tỷ kWh/năm, có thể giảm điện tiêu thụ ít nhất 15% bằng các giải pháp tốn ít hoặc không mất chi phí đầu tư (tiết kiệm 300 triệu kWh/năm). Những thiết bị lạnh khác, chẳng hạn như điều hòa nhiệt độ, hàng năm tiêu thụ khoảng 36 tỷ kWh và có tiềm năng tiết kiệm tối thiểu 25%. Nếu có chương trình dài hạn áp dụng triệt để các giải pháp tiết kiệm điện hàng năm có thể tiết kiệm một lượng điện rất lớn.
Liên quan đến ngành gỗ, ông Nguyễn Quốc Khánh – Chuyên gia tư vấn năng lượng cho hay: Tiêu thụ năng lượng ngành gỗ năm 2015 chiếm 2,32% lĩnh vực công nghiệp và 1% của quốc gia. Tổng phát thải nhà kính 1,26 triệu tấn CO2 và gần như hoàn toàn là phát thải gián tiếp. Nhu cầu năng lượng ngành chế biến gỗ dự báo tăng với tốc độ trung bình 8%/năm giai đoạn 2015-2030. Củi vụn vẫn là năng lượng được sử dụng nhiều nhất. Phát thải khí nhà kính tăng 10%, cao hơn tốc độ tăng nhu cầu năng lượng và khu vực sản xuất đồ gỗ vẫn là khu vực có phát thải lớn nhất.
Xây dựng kịch bản năng lượng bền vững cho ngành này với 20 giải pháp được nhận diện. Thực hiện theo kịch bản này giúp nhu cầu năng lượng tăng với tốc độ thấp hơn, 7,2%. Năm 2030 giảm 10,4% so với kịch bản thông thường, lĩnh vực sản xuất đồ gỗ và ván nhân tạo có mức giảm lớn nhất cả về tỷ lệ và giá trị tuyệt đối. Phát thải khí nhà kính giảm 5,6% năm 2020 và 14,9% năm 2030, giảm 787 nghìn tấn CO2, tương đương 1,26% mức cam kết thỏa thuận Paris.
Giải pháp được đưa ra đối với các DN trong ngành chế biến gỗ như lựa chọn các công nghệ thiết bị hiện đại, thực hiện các giải pháp quản lý phía cầu để giảm chi phí tiền điện, giám sát sử dụng năng lượng…
Làm thế nào để khuyến khích năng lượng xanh, sạch, tái tạo, đặc biệt trong ngành kinh tế nói chung và trong 2 ngành thủy sản và gỗ nói riêng, ông Nguyễn Quang Vinh – Tổng Thư ký VCCI – nhấn mạnh: Tìm ra mô hình hợp tác công tư để phối hợp triển khai các chương trình hỗ trợ cộng đồng DN thực hiện mục tiêu phát triển bền vững về năng lượng Việt Nam là hướng đi quan trọng.