Lý do ra đời của bức thư
Ông Đỗ Xuân Duy
|
Ở tuổi xưa nay hiếm, nhưng ông Đỗ Xuân Duy vẫn rất minh mẫn và nhớ đến từng chi tiết về xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình. Ông nguyên là Trưởng ban Phiên dịch tiếng Nga, làm phiên dịch cho các chuyên gia Liên Xô trong lĩnh vực cơ giới, đồng thời là trợ lý của ông Phan Ngọc Tường, lúc đó là Tổng giám đốc Tổng công ty Xây dựng Thủy điện Hòa Bình..
Ông Duy nhớ lại, khoảng đầu những năm 70 của thế kỷ trước, nước ta chuẩn bị xây dựng một nhà máy thủy điện lớn trên dòng sông Đà. Khi ấy, nhiệm vụ nghiên cứu, khảo sát, đề xuất các phương án lựa chọn địa điểm xây dựng nhà máy được giao cho Bộ Thủy lợi. Năm 1971, các chuyên gia Liên Xô được cử sang Việt Nam phối hợp khảo sát, lựa chọn địa điểm, tham gia thiết kế và xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình trên sông Đà. Ngày 6/11/1979, công trình Thủy điện Hòa Bình chính thức khởi công xây dựng. “Sở dĩ chọn ngày này vì hôm sau, tức ngày 7/11/1979 là ngày kỷ niệm 62 năm Cách mạng Tháng Mười Nga. Nhân dịp ấy, Đoàn đại biểu cấp cao của Liên Xô sang thăm Việt Nam và tham dự Lễ khởi công công trình” - ông Duy nhớ lại.
Nơi lưu giữ bức thư gửi thế hệ mai sau tại Nhà máy thủy điện Hòa Bình - Ảnh Vũ Lam
|
Trong những năm 1981 - 1982, công trình Thủy điện Hòa Bình bước vào giai đoạn khẩn trương, đảm bảo tiến độ ngăn sông Đà đợt 1 vào đầu năm 1983. Ông Bogachenko - Tổng chuyên viên Liên Xô trên công trình Nhà máy Thủy điện Hòa Bình đề xuất: Theo thông lệ, ở Liên Xô và nhiều nước trên thế giới, trước khi ngăn sông, những người xây dựng thường viết một bức thư và bỏ vào một chiếc chai hoặc lọ thủy tinh đậy kín rồi chôn vào thân đập và thường gọi là “Bức thư gửi hậu thế”. Họ hi vọng, hàng trăm năm sau khi con đập không còn hoặc người ta phá đi do không còn hiệu quả phát điện nữa, chai đựng thư đó trôi dạt, ai đó bắt được mở ra xem sẽ biết rằng, người ta đã xây dựng công trình này như thế nào, khó khăn vất vả ra sao để có nguồn điện cho đất nước. “Ý nghĩa của nó là như vậy”, ông Duy chia sẻ.
Ý tưởng này được Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tức Phó thủ tướng) Đỗ Mười khi đó trực tiếp làm Trưởng ban Chỉ đạo xây dựng công trình Thủy điện Hòa Bình rất ủng hộ. Tuy nhiên, ông Đỗ Mười đề nghị, việc lưu giữ bức thư gửi hậu thế sẽ được tiến hành với nghi thức trang trọng tại một địa điểm xứng đáng chứ không phải đem chôn trong thân đập. Sau khi bàn bạc với chuyên gia Liên Xô, lãnh đạo Tổng công ty Xây dựng Thủy điện Hòa Bình đã quyết định sẽ đặt bức thư đó vào lòng khối bê tông trong khuôn viên Nhà máy. Nội dung bức thư được giao cho một cán bộ viết chữ đẹp chép lại bằng mực Tàu thành hai bản (tiếng Việt và tiếng Nga) .
Cả 8 tổ máy Nhà máy thủy điện Hòa Bình vận hành hiệu quả - Ảnh X.Tiến
|
Năm 2100 - Vì sao?
Ngay sau khi ý tưởng của ông Bogachenko về viết bức thư gửi hậu thế được chấp thuận, Tổng công ty đã nhận được rất nhiều ý kiến ủng hộ của đông đảo cán bộ, chuyên gia, công nhân trực tiếp làm việc trên công trường, của các nhà văn, nhà báo, nhân sĩ, trí thức trên mọi miền Tổ quốc.
Ông Duy đặc biệt ấn tượng với bức thư của nhà văn, nhà báo Thép Mới, khi đó đang công tác ở Báo Sài Gòn Giải Phóng. Điều đặc biệt là nhà báo Thép Mới chưa từng đến công trường, chỉ mới đọc qua báo chí và nghe kể lại. Trong bức thư có đoạn: “Hôm nay, trước núi Tản sông Đà, chúng tôi - những Sơn Tinh của thời đại mới - những người xây dựng thủy điện Hòa Bình trên sông Đà Việt Nam và Liên Xô xin gửi đến các thế hệ mai sau những dòng tâm huyết...”.
Nội dung của các bức thư gửi về công trường đều đề cập đến quyết tâm, nỗ lực cũng như sự hy sinh to lớn của những người xây dựng thủy điện. Đồng thời, cũng nhắc đến hậu phương vững chắc của cả nước đã đóng góp từ cây kim, sợi chỉ đến lương thực cho cán bộ, công nhân trên công trường. Ban tổ chức đã tập hợp, lựa chọn những nội dung hay nhất, độc đáo nhất tạo thành một bức thư chung.
“Nhiều người cho rằng, bức thư đó dự đoán được tình hình đất nước. Có người lại nói nó mang yếu tố tâm linh, kỳ bí, làm bùa trấn yểm. Nói chung, có rất nhiều lời đồn thổi huyền bí về nội dung bức thư, làm cho câu chuyện thêm phần ly kỳ. Nhưng tôi khẳng định, đó chỉ là lời đồn thổi vô căn cứ”. Ông Duy nói.
Một góc Phòng điều khiển Nhà máy thủy điện Hòa Bình - Ảnh X.Tiến
|
Ông Duy cũng tiết lộ, thư được viết trên một chất liệu đặc biệt gửi từ Liên Xô sang. Thư dài 1,5 trang đánh máy, khoảng 700 chữ. Lá thư viết xong đã được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước thông qua.
Vậy tại sao lại phải đến năm 2100 mới được mở? Ông Duy lý giải: “Vì là thư gửi thế hệ mai sau nên cần phải lựa chọn những người không sinh ra, lớn lên ở thời điểm gắn lá thư ấy (1983). Nếu chọn đúng 100 năm sau thì rất có thể nhiều người sinh năm này vẫn còn sống, nên phải chọn hẳn sang năm 2100, bởi khó ai có thể sống đến 117 tuổi được”.
Còn nghi lễ đặt lá thư cũng được tiến hành rất trang trọng. Đặc biệt, việc lựa chọn 4 người để bắt 4 vít gắn tấm biển với khối bê tông. Bốn người được lựa chọn phải đáp ứng được 8 tiêu chí: Phải có già, có trẻ. Phải có nam có nữ. Phải có Việt Nam và Liên Xô. Và phải có người trên trời, người dưới đất. Sau khi họp bàn, Ban tổ chức quyết định chọn ông Bogachenko – người Liên Xô, đại diện người già (lúc đó đã ngoài 60 tuổi). Ông Vũ Mão, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (lúc đó 44 tuổi) đại diện cho người trẻ. Ông Ngô Xuân Lộc là Tổng chỉ huy người Việt Nam – đại diện cho người dưới đất. Nhưng còn đại diện phái nữ và “người trên trời?”. Thoạt đầu, Ban tổ chức dự tính chọn một trong hai người là chị Lê Thị Ngừng - nữ thợ lái máy xúc EKG 4,6 m3 đầu tiên ở Việt Nam (Anh hùng Lao động) hoặc nữ kỳ thủ vô địch cờ vua quốc tế người Grudia (thành viên Đoàn đại biểu Thanh niên Cộng sản Liên Xô sang thăm Việt Nam). Tuy nhiên cả 2 người này mới chỉ đáp ứng được tiêu chí là phụ nữ mà thiếu tiêu chí “trên trời”. Cuối cùng, Ban tổ chức chọn nữ phi hành gia vũ trụ thứ 2 của thế giới là Xavitxkaia (30 tuổi), cũng là thành viên của Đoàn TNCS Liên Xô sang thăm Việt Nam.
Sau khi chọn người, Ban tổ chức đã lựa chọn thời điểm công bố lá thư đó.
Chiều ngày 30/1/1983, tại sân nhà Điều độ Trung tâm, một buổi lễ trang trọng được tổ chức với sự tham gia của 250 đại biểu thanh niên Liên Xô, 350 đại biểu thanh niên Việt Nam và hàng ngàn công nhân lao động trên công trường. Ông Ngô Xuân Lộc đọc thư bằng tiếng Việt, ông Giaseplin đọc bằng tiếng Nga. Sau đó, hai thư được cuộn lại, cho vào thỏi đồng được khoan rỗng và có nắp đậy rồi bỏ vào lòng khối bê tông. Tiếp đó 4 người được lựa chọn dùng tuavit bắt ốc cố định tấm biển “Nơi đây cất giữ lá thư gửi các thế hệ mai sau. Thư được mở ngày 1/1/2100”.