Đại Thủy điện Sơn La về trước tiến độ 3 năm: Thành công của sự gắn kết trí tuệ Việt Nam

15:12, 10/10/2012

Nếu như Thủy điện Hòa Bình (công suất 1.920MW) phải mất 15 năm xây dựng và cũng ngần ấy năm chuẩn bị dự án với sự giúp đỡ của hàng trăm chuyên gia Liên Xô (cũ) thì đến TĐ Sơn La (2.400 MW) - lớn nhất Đông Nam Á - hoàn toàn được xây dựng từ bàn tay và khối óc của những kỹ sư, công nhân xây dựng thủy điện Việt Nam.

Công nhân vận hành nhà máy - Ảnh: CTV

Công trình sẽ được khánh thành vào cuối năm nay, rút ngắn tiến độ 3 năm so với Nghị quyết Quốc hội đề ra, mang lại nguồn lợi to lớn không chỉ giải quyết vấn đề an ninh năng lượng quốc gia. PV đã có cuộc trao đổi với phái viên của Thủ tướng Chính phủ đặc trách công trình TĐ Sơn La - Lai Châu - ông Thái Phụng Nê.

´ Thưa ông, do đâu mà chúng ta có thể rút ngắn được tiến độ thi công TĐ Sơn La tới 3 năm, trong khi nhiều dự án điện còn chưa đúng tiến độ?

- Tính đến nay, TĐ Sơn La đã phát điện tổng cộng 11,4 tỉ kWh, dự kiến cả năm nay sẽ phát hơn 8 tỉ kWh nữa. Do việc phát điện sớm hơn so với tiến độ nên tính đến thời điểm này, tổng giá trị nộp ngân sách của TĐ Sơn La cho 3 tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu lên tới 1.144 tỉ đồng. Dự án cũng được đánh giá là “kiểu mẫu” về tiến độ thi công với việc cứ 4 tháng đưa vào vận hành 1 tổ máy. Từ khi phát điện tổ máy số 1 đến nay, trong năm 2011 lần lượt 3 tổ máy vào vận hành an toàn, và năm 2012, 2 tổ máy cuối cùng đạt tiến độ đề ra, đảm bảo chất lượng thi công.

Việc sớm đưa công trình vào vận hành, trước hết là do sự sáng tạo trong cơ chế quản lý và thực hiện dự án. Chính phủ cho phép phê duyệt thiết kế kỹ thuật (TKKT) công trình làm 2 giai đoạn. Giai đoạn 1, phê duyệt việc lựa chọn tuyến công trình, làm rõ sơ đồ dẫn dòng. Trong quá trình lập TKKT giai đoạn 2, cho phép công trình được triển khai thi công sớm các hạng mục phục vụ dẫn dòng (mà thông thường phải hoàn tất toàn bộ TKKT 2 giai đoạn mới được bắt tay thi công).

Ngoài ra, một loạt các bước thí nghiệm quan trọng cũng được triển khai trong giai đoạn này, đặc biệt là thí nghiệm sơ đồ thủy lực và cấp phối vật liệu đã giúp rút ngắn tiến độ thi công ít nhất trên 1 năm. Nếu như TĐ Hòa Bình, phải có sự hướng dẫn tỉ mỉ của các chuyên gia Liên Xô từ khâu thiết kế đến tất cả các khâu thi công, đào đắp, lắp máy... thì đến TĐ Sơn La, người VN đã đảm nhiệm toàn bộ, chỉ thuê nước ngoài thiết kế những phần việc phụ. Các hạng mục thiết bị cơ khí thủy công như cửa van, kết cấu thép trong bêtông, đường ống áp lực, thiết bị cẩu, nâng hạ... trước đây phải nhập của nước ngoài toàn bộ, thì hiện giờ, các đơn vị trong nước đều đã chế tạo và cung cấp được.

´ Khi tiến hành thi công TĐ Sơn La, hình như có một cuộc tranh luận khá nảy lửa giữa ông với lãnh đạo Bộ Xây dựng lúc đó về việc có hay không đưa công nghệ bêtông đầm lăn áp dụng cho Sơn La?

- Đúng vậy, vị lãnh đạo Bộ Xây dựng khi đó băn khoăn khi tôi cho rằng, bêtông đầm lăn hoàn toàn có thể áp dụng được ở công trình TĐ Sơn La. Dù vào thời điểm đó, công nghệ bêtông đầm lăn mới được đưa vào thử nghiệm ở TĐ Pleikrông (Đắc Lắc), nhưng cũng không hoàn toàn giống với cấp phối bêtông đầm lăn ở Sơn La. Vả lại, trong công nghệ bêtông đầm lăn, phụ gia quan trọng nhất là tro bay (loại nhiên liệu được lấy ra từ quá trình sản xuất nhiệt điện than) lúc bấy giờ VN chưa sản xuất được. Nhập khẩu thì giá quá cao.

Tuy nhiên, lúc đó tôi vẫn bảo vệ quan điểm phải sử dụng bêtông đầm lăn vì thế giới họ đã làm rồi, hơn nữa, các thí nghiệm với bêtông đầm lăn đều cho thấy kết quả rất tốt. Với các công trình đập sử dụng bêtông thông thường, lo ngại nhất là bêtông bị dãn nở trong quá trình đông kết nên thường phải giảm tối đa lượng ximăng trong bêtông.

Công nghệ bêtông đầm lăn đã làm được điều này khi phối trộn tro bay với ximăng ở một tỉ lệ nhất định, bêtông sẽ được hạ nhiệt một cách nhanh chóng. Thay vì phải mất từ 250 - 300kg ximăng cho 1m3 bêtông, ở TĐ Sơn La, tỉ lệ tro bay là 160kg, phối trộn với 60kg ximăng trong 1m3 bêtông đầm lăn cho kết quả tối ưu, vừa giúp giảm tối đa sự tăng nhiệt của bêtông, giảm nứt bề mặt bêtông, mà còn tăng độ chống thấm bề mặt đập phía thượng lưu, tiết kiệm giá thành và thời gian thi công. Nhờ áp dụng cơ giới hóa bêtông đầm lăn, dây chuyền trộn bêtông vận hành liên tục, không gián đoạn mà bình quân 1 tháng đơn vị thi công đạt năng suất đổ bêtông từ 9-12m cao trình đập, thay vì chỉ đạt 3 - 4m/tháng như bêtông thường.

´ Với tư cách là một chuyên gia đầu ngành về thủy điện, ông đánh giá thế nào về những thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng tại công trình Thủy điện Sơn La?

- Trước hết đó là sự thành công của một tập hợp trí tuệ, từ những công việc tưởng chừng như hết sức bình thường nhưng đem lại hiệu quả vô cùng lớn. Để hoàn thành công trình lần đầu tiên vượt tiến độ đề ra trước hết là sự đầu tư nguồn lực của cả hệ thống chính trị, dành tất cả nguồn lực tài chính, nhân tài, vật lực cho Sơn La. Trước Sơn La, chúng ta đã có một đội ngũ nhân lực hùng hậu và hết sức tinh nhuệ, trưởng thành từ các công trình thủy điện như Hòa Bình, Trị An, Yaly, Thác Mơ... đặc biệt là đội ngũ những người thợ xây lắp Sông Đà, thợ lắp máy Lilama đủ trình độ kỹ thuật, giàu kinh nghiệm và tâm huyết, lúc cao điểm trên công trường có tới 13.000 con người làm việc ngày đêm, liên tục 3 ca.

Hàng trăm sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nhiều cách làm sáng tạo đã được ứng dụng và lần đầu tiên triển khai trên công trường đã rút ngắn tiến độ, mang lại hiệu quả kinh tế. Trước đây, những thiết bị siêu trường siêu trọng như ở TĐ Sơn La, việc vận chuyển, lắp đặt thiết bị là rất khó khăn thì nay, hiện trong nước đã có Cty chế tạo được cần cẩu có khả năng cẩu lên đến 1.000 tấn, đảm đương được lắp đặt thành công rotor các tổ máy. Từ 8 tổ máy thiết kế ban đầu (công suất mỗi tổ 300 MW) do chứng minh được năng lực vận chuyển, lắp đặt, chúng ta đã mạnh dạn chuyển sang 6 tổ máy (400 MW/tổ), vừa giảm được thời gian thi công, lắp đặt, giảm chiều dài của gian máy...

- Xin cảm ơn ông!

 


Theo Lao động

Share