Đại diện lãnh đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam dự buổi làm việc có ông Nguyễn Xuân Nam – Phó Tổng giám đốc EVN.
Tại buổi làm việc, đại diện lãnh đạo các tập đoàn, doanh nghiệp đã báo cáo về tình hình cấp than và nhập khẩu than cho sản xuất điện, đạm năm 2022; các khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp, kiến nghị đối với Bộ Công Thương nhằm đảm bảo cung cấp đủ than cho sản xuất điện và đạm năm 2023.
Các kiến nghị đã được Bộ trưởng Bộ Công Thương lắng nghe, giải đáp; đồng thời các cục, vụ chức năng của Bộ Công Thương cũng đã đề xuất những giải pháp cụ thể, thực chất để tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ các doanh nghiệp; một số kiến nghị cần tiếp tục nghiên cứu để có phương án giải quyết khả thi, hiệu quả và tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Phát biểu chỉ đạo buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đánh giá cao sự nỗ lực của các đơn vị trong việc sản xuất, nhập khẩu và cung cấp than cho sản xuất điện, đạm thời gian qua, góp phần đảm bảo cung cấp đủ điện và đạm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và sinh hoạt của nhân dân; tiếp tục đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, nhất là trong bối cảnh các doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức hết sức dị biệt thời gian qua.
Bộ trưởng Bộ Công Thương phát biểu chỉ đạo tại cuộc họp
|
Để đảm bảo cung cấp đủ than cho sản xuất điện và đạm năm 2023 và các năm tiếp theo, Bộ trưởng Bộ Công Thương yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty, chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện than, nhà máy đạm thực hiện tốt 6 nhiệm vụ, giải pháp.
Thứ nhất, trong mọi tình huống, các tập đoàn (TKV, EVN, PVN), các tổng công ty và chủ đầu tư các nhà máy điện, đạm phải bảo đảm đủ nguồn cung than cho sản xuất điện, đạm để phục vụ phát triển kinh tế đất nước và sinh hoạt của người dân; không được để thiếu hụt, đứt gãy nguồn cung than (kể cả việc thiếu hụt, đứt gãy cục bộ).
Thứ hai, các bên liên quan thực hiện nghiêm túc các cam kết tại hợp đồng mua bán than cho sản xuất điện, đạm đã ký. Doanh nghiệp cung cấp than chịu trách nhiệm toàn diện nếu không cung cấp đủ than theo cam kết dẫn tới thiếu than cho sản xuất điện và đạm trong nước. Ngược lại, các doanh nghiệp sử dụng than cũng phải chịu trách nhiệm nếu không thực hiện đúng hợp đồng mua than.
Thứ ba, chủ động, tích cực và đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, tìm kiếm đối tác, bạn hàng xuất khẩu than trên thế giới, nhất là với các nước mà Việt Nam là thành viên trong các Hiệp định thương mại tự do và các nước đã ký kết các văn bản hợp tác với các bộ, ngành chức năng; trong đó, lưu ý chú trọng đến các thị trường xuât khẩu than tiềm năng (như Úc, Indonesia, Nam Phi, Lào…) mà Bộ Công Thương đã tổ chức kết nối tại các diễn đàn giao thương và tại các kỳ họp liên quan.
Thứ tư, khẩn trương tổ chức nghiên cứu các cơ chế, chính sách của Lào liên quan đến hoạt động thương mại than và khảo sát thị trường than của Lào, các tuyến đường vận chuyển than về Việt Nam để bảo đảm tối ưu. Có phương án chuẩn bị hệ thống kho cảng chứa than tại Việt Nam ở vị trí phù hợp để có thể tiếp nhận hiệu quả than nhập khẩu từ Lào.
Thứ năm, các đơn vị thực hiện công tác nhập khẩu than cần chủ động xây dựng kế hoạch nhập khẩu than với lộ trình cụ thể để triển khai thực hiện; chuẩn bị tốt nguồn nhân lực, tài chính, cơ sở hạ tầng phục vụ công tác nhập khẩu than cho sản xuất điện, đạm trong nước.
Thứ sáu, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và Tổng công ty Đông Bắc thực hiện hiệu quả các giải pháp nâng cao năng lực sản xuất, chế biến than để sản xuất tối đa các chủng loại than theo nhu cầu sử dụng của các hộ tiêu thụ, đặc biệt là các chủng loại than cho sản xuất điện. Khẩn trương tổ chức rà soát hệ thống kho cảng tại khu vực miền Trung và miền Nam để nghiên cứu đề xuất xây dựng các phương án, kho trung chuyển dự trữ than bảo đảm cung cấp đủ và ổn định cho các nhà máy nhiệt điện than theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 29/CT-TTg.
Ngoài ra, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng chỉ đạo EVN, PVN, TKV, Tổng công ty Đông Bắc và chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện, nhà máy đạm cần chú trọng hơn nữa đến việc tăng năng suất lao động, đổi mới sáng tạo, giải quyết tốt mối quan hệ giữa giá nguyên/nhiên liệu đầu vào với giá sản phẩm đầu ra phù hợp với quy luật thị trường và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các đơn vị cũng cần nêu cao tinh thần tất cả vì mục tiêu chung, tăng cường cơ chế phối hợp nhằm giải quyết kịp thời và hiệu quả các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là trong việc hợp tác tiêu thụ sản phẩm của nhau; cùng đồng hành phát triển, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa các doanh nghiệp và tiếp tục đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.