Nhà máy Thủy điện Đại Ninh có công suất 300 MW được đưa vào sử dụng từ năm 2007, gồm các phần chính là hồ chứa có dung tích 319 triệu m3, hệ thống đập tràn để điều tiết nước và xả lũ. Khu vực thủy điện Đại Ninh ở khoảng cách các trạm truyền dẫn đến trung tâm xử lý và Nhà máy trên 30 km đường bộ, sử dụng hệ thống truyền dẫn tín hiệu bằng vô tuyến.
Các trạm thu phát tín hiệu được đặt trên núi cao, khó khăn và tốn kém nhiều cho chi phí thi công, bảo trì, sửa chữa. Hệ thống có tốc độ truyền tín hiệu khá chậm. Do địa hình hiểm trở, điều kiện thời tiết phức tạp nên từ khi đưa vào vận hành, hệ thống này bộc lộ nhiều nhược điểm, vận hành không ổn định.
Nhóm kỹ sư đã thay thế giải pháp, thi công mới đường cáp quang trên 40 km để truyền dẫn tín hiệu từ đập tràn, cửa nhận nước về phòng điều khiển trung tâm tại nhà máy để xử lý.
Để truyền dẫn tín hiệu, nhóm đã sử dụng các bộ thiết bị PLC S7-300 đặt tại đập tràn và cửa nhận nước, thiết bị chuyển đổi quang - điện, qua hệ thống cáp quang và máy tính giám sát. Các PLC này được lập trình và cấu hình giao thức TCP/IP để đưa tín hiệu tới máy tính giám sát tại nhà máy. Dữ liệu trên máy tính được xử lý bằng phần mềm WinCC Flexible 2008 do các tác giả tự thiết kế toàn bộ giao diện, cấu hình kết nối cho phần mềm. Ngoài việc hiển thị dữ liệu, giao diện có các chức năng cảnh báo, lưu trữ sự kiện, vẽ dữ liệu ra đồ thị theo thời gian thực…
Từ khi đưa vào vận hành, hệ thống đã được cải tiến và bổ sung thêm các chức năng giám sát hệ thống báo cháy các tòa nhà tại nhà máy, giám sát máy phát Diesel 1 MVA, hiển thị, thu thập lượng mưa lưu vực hồ Đại Ninh góp phần phòng chống lụt bão. Do tốc độ đường truyền cao và ổn định, ít bị ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết nên tận dụng được cơ sở hạ tầng cáp quang để sử dụng cho mạng điện thoại nội bộ, camera từ xa.
Tổng chi phí vật tư thực hiện giải pháp khoảng 285 triệu đồng thay thế hệ thống cũ có mức đầu tư khoảng 16 tỷ đồng với chi phí bảo dưỡng hàng năm trên 300 triệu đồng.