Nhiệt điện đốt than: Công nghệ có đảm bảo sản xuất sạch?

Nhiệt điện than có vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh năng lượng khi vẫn chiếm khoảng 50% tỷ trọng về công suất và sản lượng. Nhiều ý kiến cho rằng, nhiệt điện than gây ảnh hưởng môi trường, tuy nhiên, sẽ rất khó để tìm được nguồn thay thế nhiệt điện than trong ngắn hạn. Chia sẻ dưới đây của PGS. TS. Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Nhiệt Việt Nam với phóng viên BNEWS cho thấy đã có những biện pháp để sản xuất điện sạch, bảo vệ môi trường. 

Công ty Nhiệt điện Hải Phòng. Ảnh: Lâm Khánh – TTXVN

BNEWS: Thưa ông, ông đánh giá thế nào về vai trò của nhiệt điện đốt than trong sản xuất điện trên thế giới, cũng như của Việt Nam?

ÔngTrương Duy Nghĩa: Nguồn nhiệt điện than vẫn là nguồn sản xuất điện năng chủ yếu của thế giới, khi chiếm khoảng 41,2% tổng sản lượng điện, tiếp đó là nhiệt điện khí 21,9% và thuỷ điện, điện hạt nhân...

Các nước có tỷ lệ nhiệt điện than lớn như Trung Quốc 43,3%, Ấn Độ 67,9% và Australia 68,6%.

Hàn Quốc cũng là một nước có tỷ lệ nhiệt điện than cao 43,2% mặc dù trữ lượng than trong nước rất ít, nguồn than chủ yếu từ nhập khẩu. 

Ngay tại Việt Nam, vai trò của sản xuất nhiệt điện than cũng được đánh giá là rất quan trọng.

Năm 2015, nhiệt điện than chiếm khoảng 30% trong cơ cấu điện, nhưng theo Quy hoạch điện VII đến năm 2020 sẽ là 49,3%, năm 2025 là 55% và 2030 là 53%. 

Than có trữ lượng lớn nhất trong các loại nhiên liệu hữu cơ và còn đủ dùng cho nhân loại khoảng 300-400 năm nữa. Giá thành cũng rẻ nhất. Chính vì thế, các nước đã khai thác hết nguồn thuỷ điện thì đều chuyển sang phát triển nhiệt điện than, điển hình như Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông (Trung Quốc) là những nước nhập khẩu than.

BNEWS: Vậy nếu so sánh nhiệt điện than với các nguồn điện khác như thuỷ điện, điện khí, năng lượng tái tạo thì thế nào và tại sao cơ cấu nguồn nhiệt điện than lại có sự tăng mạnh như vậy? 

Ông Trương Duy Nghĩa: Về nhiệt điện than, sau thuỷ điện, đây là nguồn điện có giá thấp nhất (khoảng 7 cent Mỹ/kWh), vốn đầu tư thấp hơn thuỷ điện, điện mặt trời, điện gió, điện hạt nhân (khoảng 1.500 USD/kWh). 

Bên cạnh đó, nhiệt điện than có khả năng huy động công suất lớn, thời gian xây dựng không lâu, chỉ khoảng 3 năm và lại không lệ thuộc vào địa điểm như thuỷ điện.

Yếu điểm duy nhất của nhiệt điện than đó là dùng khối lượng lớn nhiên liệu (60%) để sản xuất điện, dẫn tới phát thải lớn các chất thải ra môi trường, chi phí xử lý môi trường tốn kém. 

Còn với thuỷ điện, mặc dù có giá thành rẻ, là dạng năng lượng tái tạo, nhưng hiện Việt Nam cũng như các nước đã khai thác triệt để, không còn nguồn để phát triển, khiến tỷ lệ thuỷ điện trong tổng sản lượng điện năng ngày càng giảm. Ngoài ra, thuỷ điện cũng tốn diện tích làm hồ chứa, di dân, phụ thuộc vào thời tiết... 

Với nhiệt điện khí, mặc dù có thời gian xây dựng nhanh, hiệu suất cao nhất, đạt tới 58% so với 43% của nhiệt điện than. Nhưng nhiên liệu khí, dầu là loại nhiên liệu đắt tiền, vận hành và bảo dưỡng cũng rất tốn kém. 

Còn sản xuất điện năng từ năng lượng tái tạo thì vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ, giá thành còn cao, ngay tại các nước phát triển, tỷ lệ này cũng thấp. Ở Việt Nam chưa thể coi phương hướng phát triển điện tái tạo là một hướng ưu tiên để có tỷ lệ đóng góp lớn trong sản xuất điện năng.  

Chính vì vậy, xu hướng chung, các nước đều dùng nhiệt điện than để đáp ứng nhu cầu điện trong phát triển kinh tế sau khi đã khai thác triệt để các nguồn thuỷ điện. Để đảm bảo nhu cầu điện năng tăng cao, chỉ khi đất nước trở nên giàu mạnh hơn mới nghĩ đến phát triển các dạng năng lượng khác như điện tái tạo và hạn chế dần được nhiệt điện than. 

BNEWS: Nhiều ý kiến lo ngại về công nghệ của các nhà máy nhiệt điện đốt than và xử lý phát thải. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này? 

Ông Trương Duy Nghĩa: Công nghệ mỗi dự án nhiệt điện đốt than được quan tâm 2 phần: Công nghệ sản xuất và công nghệ xử lý phát thải ra môi trường. Hiện nay, có thể khẳng định công nghệ sản xuất điện năng của nhiệt điện than là công nghệ hiện đại, ngang tầm thế giới. Có thể kể đến như thông số hơi cận tới hạn và siêu tới hạn; Hiệu suất loại cao của thế giới; Đảm bảo tính hiện đại, an toàn, đồng bộ, tập trung... Tuy nhiên, nhiệt điện than sử dụng nhiều than nên khối lượng các chất thải rắn, khí, nước đều lớn, nếu không được xử lý thì sẽ gây tác hại lớn đến môi trường. 

BNEWS: Vậy theo ông, Việt Nam cần phải làm gì để phát triển nhiệt điện than, vừa đảm bảo cung ứng điện cho phát triển kinh tế giai đoạn tới, vừa đảm bảo các nhà máy sản xuất sạch, không gây hại ra môi trường? 

Ông Trương Duy Nghĩa: Sản xuất điện đốt than sẽ tạo ra các chất thải như xỉ, tro bay, khí và nước. Do vậy, trước hết, để đảm bảo môi trường xung quanh các nhà máy nhiệt điện không ô nhiễm bụi, khí, các nhà máy ngoài việc phải che chắn chống rơi vãi, chống gió thổi, có băng tải kín và kho kín. Bên cạnh đó, cần có bãi chứa tro xỉ để làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, gạch không nung, vật liệu san nền. Với chất thải khí, bụi thì hiện cũng đã có giải pháp khử bụi, khử khí hiện đại để có thể giảm tối đa việc phân tán bụi ra môi trường xung quanh.

Phải có biện pháp xử lý nước súc rửa công nghiệp, nước thải..., chống thẩm thấu nước đọng từ bãi tro xỉ ra môi trường xung quanh bằng cách gia cố nền bãi chứa. Các nhà máy khi xây dựng cần chú ý tới xử lý khí thải độc hại NOx, SO2... và lắp đặt hệ thống lọc bụi tĩnh điện để tạp chất không thoát ra ngoài. Các nhà máy nhiệt điện than ở Việt Nam đã áp dụng được các công nghệ mới, tiên tiến nên cũng hạn chế được tình trạng ô nhiễm này.

Trên các ống khói cũng lắp đặt lọc bụi tĩnh điện để tránh bụi bẩn thoát ra môi trường. Với công nghệ như vậy thì việc xử lý ô nhiễm môi trường ra bên ngoài tại các nhà máy nhiệt điện không đáng lo ngại. Các nhà máy cần tổ chức quan trắc thường xuyên để đánh giá kết quả xử lý; có ghi chép tự động và nối mạng với hệ thống quan trắc chung để đánh giá chính xác. 

Tuy nhiên, về lâu dài, cần có các chính sách khuyến khích sử dụng, tận dụng hết nguồn tro xỉ, phế thải từ các nhà máy nhiệt điện đốt than, bởi đây là biện pháp triệt để và duy nhất để xử lý tro xỉ của các nhà máy này. Đồng thời, cần có sự vào cuộc của cả nước, bao gồm cả chính sách mang tính khuyến khích và cưỡng bức trong việc sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng từ tro xỉ; ban hành các quy chuẩn, hướng dẫn cho việc tiêu thụ và sử dụng sản phẩm này.... 

BNEWS: Xin cảm ơn ông!


  • 07/03/2017 03:00
  • Theo bnews.vn
  • 19790