Cụ thể, đối với các hồ thuỷ điện ở miền Bắc, lưu lượng trung bình đều thấp hơn giá trị TBNN, thấp hơn giá trị cùng kỳ năm 2012. Tần suất nước về từ 60%-80%. Hồ thủy điện Sơn La lưu lượng nước về tháng 6 chỉ đạt tần suất 80%, thấp hơn 648 m3/s so với TBNN. Các hồ Thác Bà, Tuyên Quang lưu lượng nước về cũng chỉ ở mức tần suất 73% và 86%.
Mức dự phòng cung ứng điện của các hồ thủy điện được đảm bảo trong 6 tháng cuối năm - Ảnh Xuân Tiến
|
Đối với các hồ thuỷ điện khu vực Bắc Trung Bộ, lưu lượng nước về hồ Hủa Na, Bản Vẽ thấp hơn so với giá trị cùng kỳ năm 2012, tần suất nước về chỉ đạt từ 41% - 69%.
Các hồ thuỷ điện khu vực Trung Trung Bộ như hồ Quảng Trị, Hương Điền, Bình Điền, Đăk Mi, tần suất đạt từ 82%-98%. Các hồ A Vương, Sông Côn, Sông Tranh, tần suất nước về đạt từ 22% - 40%.
Riêng các hồ thủy điện Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, miền Nam: Vĩnh Sơn, Sông Ba Hạ, Sông Hinh, KrôngHnăng, AnKhê KaNak, Plêikrông, Ialy, Buôn Tua Srah... dòng chảy tương đương giá trị TBNN, tuy nhiên vẫn thấp hơn giá trị cùng kỳ năm 2012, tần suất nước về đạt từ 3% - 49%.
Tính đến ngày cuối cùng của mùa khô (30/6), mực nước các hồ thủy điện vẫn giữ được ở mức tương đối cao. Tổng sản lượng thủy điện tại thời điểm cuối tháng 6 ước đạt 2,321 tỷ kWh, nhiều hơn 402 triệu kWh so với kế hoạch năm. Mức dự phòng cung cấp điện được đảm bảo.