Các hồ chứa thủy điện ở Quảng Nam đã thực hiện đúng theo quy trình vận hành liên hồ chứa - Ảnh CTV
|
Văn bản số 102/BCT-TCNL của Bộ Công Thương nêu rõ: Sau khi trận lũ lịch sử xảy ra (từ ngày 14 đến ngày 16/11/2013), theo báo cáo của tỉnh Quảng Nam, báo cáo của các nhà máy thủy điện trên địa bàn; báo cáo của đoàn kiểm tra thuộc Bộ Công Thương cho thấy: Việc vận hành các hồ chứa thủy điện lớn ở Quảng Nam đã thực hiện đúng theo Quy trình vận hành liên hồ chứa (hồ A Vương, Sông Tranh 2 và hồ Đak Mi 4) và Quy trình của từng hồ đã được phê duyệt, không gây thêm lũ cho hạ du, đã góp phần cắt giảm định lũ và lượng nước lũ về hạ du trên các sông, mặc dù các hồ chứa này không có nhiệm vụ chống lũ.
Cụ thể như sau: Tại hồ thủy điện Sông Tranh 2, từ 5 giờ ngày 15/11/2013 lũ về hồ trong 7 giờ đầu với lưu lượng từ 291m3/s; đến 12 giờ 45 phút cùng ngày lưu lượng đạt đỉnh 8.333m3/s, lưu lượng xả tại thời điểm này là 2.115m3/s. Trong 12 giờ đầu của trận lũ, hồ Sông Tranh 2 đã cắt giảm được 63% lượng nước lũ với dung tích 117 triệu m3. Tại hồ thủy điện Đak Mi 4: lưu lượng về đỉnh lũ đạt lớn nhất 4.360m3/s, hồ Đak Mi 4 chỉ xả về hạ du lưu lượng lớn nhất 3.900m3/s và đã cắt được 10,6% lưu lượng đỉnh lũ. Hồ chứa Thủy điện A Vương bắt đầu xả tràn lúc 16 giờ ngày 15/11/2013 là 205m3/s, đến 20 giờ cùng ngày lưu lượng về hồ đạt đỉnh 898m3/s; trong khi đó hồ A Vương chỉ xả qua tràn lớn nhất là 793,8m3/s. Còn lại, đối với các công trình thuỷ điện hồ chứa nhỏ và tự tràn không có tác dụng điều tiết, giảm không đáng kể lưu lượng đỉnh lũ so với tự nhiên.
Văn bản số 102/BCT-TCNL của Bộ Công Thương cũng chỉ rõ: "Vai trò các hồ chứa thủy điện lớn trên hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn cắt giảm đỉnh lũ và lượng lũ cho hạ du là tích cực, góp phần giảm mức ngập lụt cho hạ du và đến thời điểm hiện nay chưa có phản ánh chính thức việc các đơn vị vận hành hồ chứa thủy điện không thực hiện đúng quy trình vận hành đã được phê duyệt".