Đường nội bộ tại mỏ than Hà Tu (Quảng Ninh) bị hư hỏng nặng do mưa lũ. Ảnh: Vietnamnet
|
Từ ngày 25 - 30/7, tại tỉnh Quảng Ninh có mưa lớn kéo dài, gây ngập lụt nghiêm trọng tại các khu vực: Thành phố Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái; các huyện Vân Đồn, Hoành Bồ, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà. Đây là đợt mưa lớn nhất trong lịch sử 40 năm ở tỉnh Quảng Ninh, gây sạt lở nhiều tuyến đường giao thông, gây lũ cục bộ làm chia cắt một số khu vực, đặc biệt là các mỏ than và đường vận chuyển than.
Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam cho biết, hiện tại, các tuyến đường nội bộ từ các kho mỏ đến cảng bị ngập úng và sạt lở không thể vận chuyển được than. Việc rót than tại các cảng và rót hàng chuyển tải tại khu vực Hòn Gai - Cẩm Phả để cấp than cho khách hàng cũng phải ngừng do mưa kéo dài liên tục, ảnh hưởng lớn nhất tới việc cấp than cho Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 1 và Vĩnh Tân 2.
Trong khi đó, lượng than đang được trữ tại Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 là 25.000 tấn, dự kiến đủ để vận hành 1 tổ máy 600 MW trong vòng 4,5 ngày. Tại Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 1, lượng than dự trữ trong kho và tại cảng là 97.000 tấn, ước tính đủ để cấp cho 2 tổ máy vận hành đầy tải trong 10 ngày, Tại Nhà máy Nhiệt điện Quảng Ninh lượng than dự trữ còn 65.500 tấn đảm bảo phát điện 2 tổ máy trong 7 ngày. Tại các nhà máy Nhiệt điện khác như: Nghi Sơn 1, Phả Lại 1, Phả Lại 2, Ninh Bình, Uông Bí, Hải Phòng...., lượng than ước tính đủ để các nhà máy này vận hành đầy tải trong khoảng 15 - 20 ngày.
Để giải quyết những khó khăn trong việc cung cấp than do điều kiện thời tiết bất lợi, lãnh đạo TKV và EVN đã có cuộc họp khẩn, thống nhất các giải pháp phối hợp. Theo đó, trong những ngày tới, TKV sẽ tập trung khôi phục hệ thống đường giao thông trong khu vực Hòn Gai - Cẩm Phả để tiếp tục vận chuyển cấp than từ các mỏ ở khu vực này ra cảng, tập trung ưu tiên cấp than cho Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 1 với lượng than cấp đảm bảo bốc dỡ tối thiểu 5.000 tấn/ngày. Ưu tiên tiếp theo là cấp than cho Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2, với lượng than cấp đảm bảo bốc dỡ tối thiểu 6.000 tấn/ngày.
Bên cạnh đó, EVN đã chỉ đạo Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia thực hiện các phương án đảm bảo cung cấp điện đủ điện cho hệ thống điện quốc gia, huy động thấp các nhà máy nhiệt điện than, và chỉ đạo các tổng công ty phát điện tìm kiếm các nguồn cấp than để duy trì phát điện.
EVN khẳng định, việc cung cấp điện cho khách hàng, nhất là tại khu vực phía Nam vẫn sẽ được đảm bảo. Tuy nhiên, EVN mong muốn nhận được sự chia sẻ của khách hàng sử dụng điện, chính quyền và nhân dân các địa phương trong việc sử dụng điện tiết kiệm, hợp lý, tránh lãng phí, góp phần giảm sức ép trong vận hành hệ thống điện.
Hiện tại, lượng than đang trữ được tại kho các nhà máy nhiệt điện thuộc EVN như sau:
Nhà máy
nhiệt điện
|
Lượng than hiện có trong kho và tại cảng nhà máy (tấn)
|
Lượng than tiêu thụ 1 tổ đầy tải 1 ngày (tấn)
|
Khả năng phát điện với lượng than hiện có trong kho nhà máy (ngày)
|
Uông Bí
|
58.200
|
3.100
|
1 tổ máy 330 MW trong 20 ngày
|
Quảng Ninh
|
65.500
|
3.100
|
Tổ máy 1 và 2 trong 7 ngày
|
Nghi Sơn
|
112.000
|
3.000
|
2 tổ máy trong 15 ngày
|
Hải Phòng
|
152.000
|
3.000
|
3 tổ máy trong 15 ngày
|
Phả Lại 1
|
92.000
|
1.500
|
8 lò/4 máy trong 15 ngày
|
Phả Lại 2
|
122.000
|
3.100
|
2 tổ máy trong 15 ngày
|
Ninh Bình
|
22.000
|
380
|
3 lò trong 16 ngày
|
Mông Dương 1
|
22.600
|
700
|
Đang chạy thử
|
Duyên Hải 1
|
97.000
|
5.000
|
2 tổ máy trong 10 ngày
|
Vĩnh Tân 2
|
25.000
(55.000 kể cả lót kho)
|
6.000
|
1 tổ máy trong 4,5 ngày
|