Nhà máy vận hành ổn định
Nhà máy Thủy điện Sông Bung 4 nằm trong bậc thang thủy điện hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn thuộc địa bàn xã Tàpơơ và xã ZuôiH, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam. Báo cáo của Ban QLDA Thuỷ điện Sông Bung 4 cho thấy trong quá trình tích nước và phát điện, mực nước hồ cao nhất đạt +221,76m (ngày 10/01/2015). Qua mùa lũ 2014 và từ khi phát điện ngày 01/10/2014 đến nay, công trình đảm bảo an toàn, không có dấu hiệu bất thường và vận hành ổn định.
Theo Quy hoạch phát triển Điện lực Quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, dự kiến đến năm 2016 công trình mới được vận hành nhưng với sự nỗ lực của Ban QLDA và các bên tham gia thi công, công trình Thủy điện Sông Bung 4 đã được đưa vào vận hành sớm hơn.
Cho đến nay sản lượng điện nhà máy phát lên lưới điện quốc gia đã đạt hơn 220 triệu kWh với hệ số khả dụng thiết bị gần như là 1, vụ Đông Xuân năm 2015 công trình đã điều tiết cho hạ du qua chạy máy với tổng lượng nước trên 410 triệu m3.
Đoàn công tác Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước các công trình xây dựng kiểm tra điều kiện vận hành Nhà máy Thủy điện Sông Bung 4 - Ảnh Báo Xây dựng
|
Bên cạnh đó, chất lượng các hạng mục được kiểm soát tuân thủ hệ thống quản lý chất lượng của chủ đầu tư, tư vấn và các nhà thầu. Đặc biệt công trình được kiểm soát chặt chẽ có hệ thống từ thiết kế, tổ chức thi công, kiểm tra thí nghiệm vật tư vật liệu đầu vào tuân thủ các tiêu chuẩn và điều kiện kỹ thuật hợp đồng.
Công tác quản lý chất lượng được Ban QLDA, tư vấn giám sát Mott MacDonald (Anh) và các nhà thầu duy trì thường xuyên. Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước đã tổ chức kiểm tra nhiều lần từ tháng 9/2011 - 4/2015, Ban QLDA và các bên đã kịp thời tiếp thu và khắc phục những tồn tại được Hội đồng nhắc nhở qua các đợt kiểm tra.
Chấp thuận đưa vào sử dụng
Sau khi kiểm tra công trình, nghe báo cáo của chủ đầu tư và ý kiến của Tổ chuyên gia, Hội đồng nghiệm thu nhận định toàn bộ công trình đã được hoàn thành thi công xây dựng và nghiệm thu tích nước hồ chứa từ tháng 8/2014. Qua 2 năm tích nước và vận hành, công trình đã đảm bảo an toàn. Các yêu cầu kỹ thuật thi công xây dựng đập chính, đập tràn qua kết quả thí nghiệm, kiểm tra đáp ứng theo thiết kế và đã được chấp thuận nghiệm thu trước khi tích nước. Đến nay các tổ máy đang vận hành ổn định, đạt công suất theo thiết kế, đảm bảo các thông số về độ rung, độ đảo, nhiệt độ trong giới hạn cho phép.
Các kết quả kiểm tra cho thấy chủ đầu tư và các đơn vị tham gia thực hiện công tính đã tuân thủ các quy định về quản lý chất lượng. Các hạng mục chính gồm đập dâng và đập tràn, cửa nhận nước, tuyến năng lượng, nhà máy thủy điện đã hoàn thành thi công xây dựng đáp ứng được yêu cầu thiết kế cũng như các tiêu chuẩn, quy chuẩn được áp dụng và được Hội đồng nghiệm thu cơ sở nghiệm thu và đưa khai thác sử dụng.
Tuy nhiên, Hội đồng nghiệm thu cũng lưu ý một số vấn đề liên quan đến điều kiện chạy thử nghiệm các tổ máy ở chế độ bù đồng bộ, hiệu suất của tuabin chỉ mới được xác định qua mô hình; bổ sung một số văn bản pháp luật liên quan đến quy trình vận hành liên hồ.
Ngoài ra, Hội đồng yêu cầu chủ đầu tư, tư vấn thiết kế kiểm tra khả năng xả lũ cực đại của tràn xả lũ trong điều kiện công trình không có tràn sự cố… đồng thời thống nhất chấp thuận kết quả nghiệm thu của Hội đồng nghiệm thu cơ sở, đồng ý chính thức nghiệm thu hoàn thành bàn giao đưa vào khai thác sử dụng.
Để đảm bảo vận hành an toàn và đảm bảo tuổi thọ công trình, Hội đồng nghiệm thu yêu cầu chủ đầu tư tiếp thu những ý kiến và đề nghị Bộ Công Thương tiếp tục thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với công trình theo các quy định quản lý an toàn đập hiện hành.
Nhà máy thủy điện Sông Bung 4
Chủ đầu tư: Tổng công ty Phát điện 2
Công trình có quy mô cấp I, công suất lắp máy 156 MW (2 tổ máy)
Dung tích hồ chứa 510,8 triệu m3; diện tích lưu vực 15,65 km2
Kết cấu đập: Bê tông đầm lăn, chiều cao đập là 109 m và chiều dài đập 345 m.
Công trình được khởi công ngày 25/6/2010
Ngăn sông ngày 16/01/2012; tích nước hồ chứa vào ngày 01/8/2014.
Phát điện thương mại tổ máy 1 ngày 01/10/2014
Phát điện thương mại tổ máy 2 ngày 22/10/2014 và hoàn thành vào quý I/2015
|