PV: Thưa ông, trong thời gian qua dư luận đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển nhiệt điện than. Là Hiệp hội có Hội đồng khoa học chuyên nghiên cứu, tham vấn cho Chính phủ về vấn đề phát triển điện, than và dầu khí, theo ông, nước ta hiện tại có cần thiết phải phát triển nhiệt điện than không?
Ông Trần Viết Ngãi - Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam
|
Ông Trần Viết Ngãi: Cơ cấu nguồn điện của Việt Nam hiện nay rất đa dạng với thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí, điện gió, điện mặt trời… Hiện nay nguồn thủy điện đã khai thác gần hết, chỉ còn một số dự án mở rộng và các công trình thủy điện vừa và nhỏ có công suất dưới 30 MW có thể khai thác được.
Tuy nhiên, dù có điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối đi nữa thì cũng không thể cáng đáng được vai trò chủ lực trong hệ thống điện được vì điện gió chỉ có thể chạy được 5-6 tiếng/ngày, điện mặt trời 4-5 tiếng/ngày, không thể chạy được 24/24h như nguồn thủy điện và nhiệt điện than được.
Theo Tổng sơ đồ điện VII điều chỉnh mới được Chính phủ phê duyệt (đầu năm 2016) dự báo tốc độ tăng trưởng điện vẫn trên 10%/ năm có nghĩa là tốc độ phát triển ngành điện lực Việt Nam tăng gần gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng GDP của đất nước. Do vậy, trong khi các nguồn điện mới khác chưa đưa vào được thì đương nhiên phải khai thác, xây dựng nhiệt điện than.
Trên thế giới nhiều quốc gia phát triển khi chưa có điện hạt nhân thì vẫn phải phát triển mạnh nguồn nhiệt điện than để cung cấp nguồn điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì thế, ở Việt Nam từ nay đến năm 2030 khi chưa có điện hạt nhân thì nhất thiết chúng ta phải xây dựng một số nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) than để nâng công suất nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
PV: Trong thời gian qua, khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam có tốc độ phát triển nhanh, kéo theo nhu cầu về điện cũng rất lớn. Ông đánh giá thế nào về vai trò của nhiệt điện than và dự kiến cần phát triển nguồn điện ở khu vực này ra sao?
Ông Trần Viết Ngãi: Theo tính toán của Hiệp hội Năng lượng, từ nay đến năm 2020 và năm 2025 xu hướng phát triển phụ tại ở phía Nam ở mức rất “nóng”. Nhưng ở khu vực này chỉ có cụm Phú Mỹ, Nhơn Trạch, Cà Mau (công suất khoảng 10.000 MW) và mới đưa được Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 1, Duyên Hải 3, Vĩnh Tân 2 vận hành, còn các dự án Nhiệt điện Sông Hậu, Long Phú… chưa biết khi nào xong. Thời gian qua việc đảm bảo bù đắp nguồn điện này được thực hiện bằng cách truyền tải điện công suất cao qua các đường dây 500 kV từ miền Bắc và miền Trung vào miền Nam.
Tính toán cân bằng cung - cầu điện toàn quốc giai đoạn 2017 – 2020 miền Nam sẽ không thể tự cân đối cung - cầu nội miền, sản lượng điện thiếu hụt hàng năm khoảng 10 - 15% tổng nhu cầu (khoảng 2.000 MW). Do đó, miền Nam luôn phải nhận điện qua hệ thống truyền tải điện từ miền Bắc, miền Trung vào miền Nam với nhu cầu khoảng 15 tỷ kWh năm 2017 và sẽ tăng tới 21 tỷ kWh vào năm 2019. Tuy nhiên, hiện tại năng lực truyền tải điện vào miền Nam chỉ đáp ứng được 18,5 tỷ kWh/năm (đạt ngưỡng giới hạn truyền tải Bắc - Nam).
Theo tính toán của chúng tôi, đến năm 2025-2030 miền Nam cần khoảng 30.000 MW nguồn điện tại chỗ nữa để đáp phát triển kinh tế. Như trên tôi phân tích điện hạt nhân chưa đưa vào được, thủy điện khai thác hết, để đảm bảo điện cho khu vực này chỉ còn 2 con đường: Thứ nhất phát triển nhiệt điện than và thứ 2 nhập khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) để chạy bằng tuabin khí.
Tuy nhiên việc nhập khí LNG về để phát triển điện chỉ dành cho nước phát triển như Nhật Bản, Singgapo vì giá thành sản xuất và bán điện cao hơn nhiều (khí hóa lỏng 1 kWh điện gần 20 cent tương đương 4.000 đồng, trong khi giá điện bình quân hiện nay 1.600 đồng). Chính vì thế cân đối giá điện, công nghệ đầu tư xây dựng, sự ổn định trong vận hành và cả chế độ chạy nền, chạy lưng, chạy đáy thì nhiệt điện than đều đáp ứng được.
Ngoài ra, việc phát triển các NMNĐ than tại chỗ mang lại 3 hiệu quả: Nguồn tại chỗ đi với phụ tải tại chỗ nên hạn chế tổn thất điện năng; chất lượng điện áp rất cao, không gây sụt áp; việc vận hành đi với cung cấp, sửa chữa được thuận lợi.
Một nguyên tắc trong hệ thống điện, nguồn điện ở đâu phụ tải ở đấy là tối ưu vì thế phải xây dựng các NMNĐ than ở miền Nam.
Việc phát triển các NMNĐ than là để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia
|
PV: Tuy nhiên, một vấn đề được dư luận quan ngại trong vấn đề phát triển nhiệt điện than đó là ô nhiễm môi trường. Vấn đề này được nhìn nhận ra sao từ góc độ chuyên gia thưa ông?
Ông Trần Viết Ngãi: Chúng ta không khuyến khích nhưng phát triển nhiệt điện than là bước đi không thể thiếu. Chúng ta vẫn phải đầu tư xây dựng, phát triển các nhà máy nhiệt điện than ít nhất đến năm 2030 khi có điện nguyên tử, khi năng lượng tái tạo phát triển ở mức cao thì lúc đó chúng ta mới giảm tỷ trọng nhiệt điện than được.
Theo tôi khi xây dựng NMNĐ than hiện nay có 3 yêu cầu bắt buộc đối với các chủ đầu tư xây dựng các nhà máy đó là: Khắc phục tối đa các khí thải độc hại NOx, SOx và lắp đặt lọc bụi tĩnh điện để tạp chất không đào thải ra môi trường; xây dựng được các cảng cấp than, băng chuyền than phải hợp lý để tránh rơi vãi than; xử lý các chất thải tro, xỉ.
Hiện nay các NMNĐ than ở Việt Nam đã áp dụng công nghệ mới tiên tiến nên đã hạn chế được tình trạng ô nhiễm môi trường. Bản thân trong lò đã khử được chất độc như COx, SOx, NOx. Trên ống khói lắp lọc bụi tĩnh điện để tránh được bụi bẩn ra ngoài nên gần như khắc phục được khói bụi ra môi trường.
Tôi cho rằng với công nghệ hiện đại như vậy nên việc phát triển nhiệt điện than không đáng lo ngại như dư luận nêu ra trong thời gian qua.
PV: Qua nghiên cứu, đánh giá, ông có thể chia sẻ thêm các kinh nghiệm trong phát triển nhiệt điện than của các quốc gia trên thế giới nhằm hài hòa giữa yếu tố kinh tế, xã hội?
Ông Trần Viết Ngãi: Việc phát triển nguồn điện tại mỗi nước còn phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cũng như phụ thuộc vào tài nguyên của đất nước đó. Ở Việt Nam có nhiều thuận lợi phát triển thủy điện, nhiệt điện than nên mỗi loại này chiếm trên 30% công suất đặt hệ thống. Các quốc gia Châu Mỹ như Venezuela, Peru, Mexico… do có nhiều dầu mỏ nên tỷ trọng điện tuabin khí nhiều hơn.
Tỷ trọng nhiệt điện than trên thế giới hiện nay vẫn đang rất cao, tính trung bình trong tổng cơ cấu nguồn thì chiếm gần 50%. Quốc gia sử dụng ít tỷ trọng nhiệt điện than cũng chiếm gần 30%, còn nhiều thì lên tới 70-80%.
Nhiều đất nước phát triển hơn nước ta cả hàng chục năm, hàng trăm năm nhưng vẫn phải sử dụng nhiệt điện than và chiếm tỷ trọng lớn như Hoa Kỳ (60%), Trung Quốc (65%), Pháp (55%), Úc (60%)…
PV: Xin cảm ơn ông!