Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ phát biểu tại Quốc hội ngày 30/5 - Nguồn ảnh: VGP
|
Sản lượng điện thương phẩm toàn quốc giai đoạn 2014 - 2018
|
An ninh an toàn điện là một cân đối lớn và trọng yếu của nền kinh tế. Để tăng 1% GDP thì điện phải tăng trưởng tối thiểu 1,5%. Trong 3 năm qua, mức tăng trưởng bình quân về điện là 10,15%/năm. Trên cơ sở kịch bản GDP năm 2019 tăng 6,8%, thì điện phải tăng trưởng ít nhất 11,23%.
Theo quy định tại Luật Điện lực và Luật Giá, điện là mặt hàng vận hành theo thị trường nhưng có sự điều tiết của nhà nước. Khung giá, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ do Thủ tướng Chính phủ quy định.
Trên cơ sở rà soát tổng cơ cấu nguồn điện và các yếu tố đầu vào dự kiến tăng 20.032 tỷ đồng, Bộ Công Thương và EVN đã đề xuất 3 kịch bản tăng giá điện gồm: 7,31%; 8,36% và 9,26% để bù đắp chi phí đầu vào của ngành Điện.
Sau khi cân nhắc nhiều mặt, Chính phủ quyết định chọn phương án điều chỉnh giá điện tăng 8,36%.
Về lý do tăng giá điện vào tháng 3, CPI thường giảm trong tháng 3 sau khi tăng mạnh trong 2 tháng trước đó. Trên thực tế, trong 10 lần điều chỉnh giá điện, đã có 4 lần điều chỉnh trong tháng 3. Nếu điều chỉnh muộn hơn, giữa năm hoặc sau tháng 7, tỉ lệ tăng giá điện sẽ phải cao hơn, để bù đắp các chi phí đầu vào đã tăng trên 20.000 tỷ đồng.
Về nguyên nhân hóa đơn tiền điện của khách hàng sinh hoạt trong tháng 4 tăng, theo báo cáo của Bộ Công Thương trên cơ sở các đoàn kiểm tra liên ngành, có 3 nguyên nhân chính: Do điều chỉnh giá từ ngày 20/3/2019; kỳ ghi chỉ số công tơ tháng 4 dài hơn tháng liền kề trước đó 3 ngày; nhu cầu dùng điện tăng cao do thời tiết nắng nóng bất thường. Kết quả kiểm tra cũng cho thấy, không có sai phạm trong cách tính và thu tiền điện của EVN.
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công Thương, EVN tiếp tục tiết kiệm chi phí, giảm tổn thất điện năng, minh bạch các yếu tố chi phí đầu vào.
Năm 2017, EVN đã tiết kiệm được 2.228 tỷ đồng; năm 2018 khoảng 2.326 tỷ đồng. Tỷ lệ tổn thất điện năng năm 2018 cũng giảm còn 6,83%, vượt trước 1 năm so với kế hoạch giai đoạn 2016-2020 được Thủ tướng Chính phủ giao.
Trên cơ sở ý kiến, đề xuất của các chuyên gia, người dân, doanh nghiệp, Chính phủ cũng đã chỉ đạo Bộ Công Thương, EVN sớm nghiên cứu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung biểu giá điện hiện hành cho hợp lý, vừa bảo vệ người có thu nhập thấp, vừa phù hợp hơn với nhu cầu, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao.
Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Công Thương, EVN cần làm tốt hơn công tác truyền thông, tạo niềm tin của người dân, doanh nghiệp với sự điều hành của Chính phủ.
Chính phủ cũng sẽ sớm công bố kết quả thanh tra giá điện và xử lý nghiêm sai phạm, nếu có.
Các yếu tố đầu vào làm tăng giá điện năm 2019
TT
|
Yếu tố tăng
|
Tỷ lệ tăng (%)
|
Chi phí tăng
(tỷ đồng)
|
1
|
Điều chỉnh giá than đợt 1
|
2,61% - 7,67%
|
3.182,67
|
2
|
Điều chỉnh giá than trộn (gồm nội địa và nhập khẩu)
|
|
1.920,66
|
3
|
Điều chỉnh giá than đợt 2
|
3,77% đối với than của TKV;
5% đối với than của Đông Bắc
|
2.230,05
|
4
|
Giá dầu thế giới (dầu HSFO) để tính giá khí thị trường
|
2,78%
|
946,50
|
5
|
Giá khí trong bao tiêu tăng theo giá thị trường từ ngày 20/3/2019, thực hiện theo Nghị quyết 57/2013/QH13 ngày 12/11/2013 của Quốc hội.
|
44,03%
|
5.852,41
|
6
|
Giá khí trên bao tiêu theo giá thị trường
|
0,23%
|
589,55
|
7
|
Giá điện cho các nhà máy thủy điện nhỏ áp dụng cho năm 2019 (Biểu giá chi phí tránh được)
|
1,83%
|
267,40
|
8
|
Tỷ giá USD
|
1,367%
|
1.218,30
|
9
|
Chênh lệch tỷ giá theo hợp đồng mua bán điện của các nhà máy điện
|
|
3.824,87
|
|
Tổng
|
|
20.032,41
|
|