Ông Đỗ Đức Tưởng – Cố vấn Năng lượng sạch thuộc Chương trình Năng lượng Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ tại Việt Nam
|
Tính đến hết tháng 7/2017, tại Việt Nam đã có hàng trăm dự án điện mặt trời được đăng ký đầu tư với tổng công suất nguồn lên tới hơn 17.000 MW. Tính khả thi của các dự án được đánh giá khá cao khi công nghệ sản xuất điện mặt trời ngày càng hiện đại, có khả năng hiện thực hóa các tiềm năng kỹ thuật thành tiềm năng kinh tế, thương mại.
PV: Ông đánh giá thế nào về tình hình phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là lĩnh vực điện mặt trời?
Ông Đỗ Đức Tưởng: Hiện nay thế giới đã phát triển rất mạnh các nguồn năng lượng tái tạo, trong đó có điện mặt trời. Nhưng tại Việt Nam vẫn còn khá mới mẻ, mặc dù Việt Nam có tiềm năng rất lớn về tài nguyên điện mặt trời. Để khuyến khích đầu tư vào năng lượng tái tạo, điện mặt trời, điện gió, Chính phủ đã đưa ra nhiều cơ chế chính sách, đồng thời tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp khi tham gia vào lĩnh vực này.
Đơn cử, việc miễn thuế nhập khẩu cho các sản phẩm, thiết bị mà Việt Nam chưa sản xuất được, được huy động vốn hợp pháp từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án điện mặt trời theo quy định của pháp luật hiện hành. Ngoài ra, còn được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng như lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế.
Kể từ khi có Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam của Chính phủ, chúng tôi đã chứng kiến sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực này, họ bắt đầu có xu hướng đầu tư vào điện mặt trời.
PV: Mặc dù đã có những chính sách ưu tiên cho năng lượng tái tạo, song đến nay số nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực điện mặt trời vẫn khá khiêm tốn. Theo ông nguyên nhân do đâu?
Ông Đỗ Đức Tưởng: Mặc dù chúng ta đã có cơ chế về giá nhưng vẫn còn nhiều yếu tố khác liên quan như cơ sở hạ tầng để truyền tải lưới điện. Tôi được biết, có những khu vực có rất nhiều dự án được đăng ký, nhưng máy biến áp của khu vực đó lại không đủ công suất để hấp thụ tất cả các nguồn điện từ các dự án điện mặt trời.
Thứ nữa là tại Việt Nam chính sách đưa ra nhưng quá trình triển khai ra sao còn phụ thuộc khá nhiều vấn đề, nhiều thủ tục như việc xin bổ sung quy hoạch dự án vào hệ thống, kế hoạch phát triển điện lực của địa phương cũng như của quốc gia. Hoặc như vấn đề xin cấp đất, xin giấy phép đấu nối, thỏa thuận mua bán điện…, tất cả những vấn đề đó đều tác động đến nhà đầu tư về mặt chi phí tài chính cũng như thời gian, không loại trừ cả những rủi ro mà nhà đầu tư phải chịu trong quá trình thực hiện.
PV: Trong Sơ đồ quy hoạch điện VII sửa đổi, Việt Nam đã quy hoạch khoảng 850 MW điện mặt trời đến năm 2020. Theo ông con số này liệu đã hợp lý?
Ông Đỗ Đức Tưởng: Vấn đề đặt ra là Chính phủ có coi con số 850 MW là mức trần hay không, hay Chính phủ chỉ đưa ra mục tiêu đó để khuyến khích? Theo như tôi được biết khi trao đổi, tiếp xúc với các nhà khoa học chuyên ngành, mức 850 MW không phải là mức trần mà Chính phủ cũng sẽ hỗ trợ tất cả các dự án, kể cả khi chúng ta đã đạt được mức theo kế hoạch đề ra.
PV: Có ý kiến cho rằng, muốn phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam sẽ phải cân nhắc giảm các nhà máy nhiệt điện đang quy hoạch. Ông nhận định như thế nào về vấn đề này?
Ông Đỗ Đức Tưởng: Trước đây trên thế giới, điện than và điện khí được ưu tiên hơn vì tính ổn định của chúng; điện gió, điện mặt trời chỉ phụ trợ. Nhưng bây giờ thì ngược lại, thế giới tập trung ưu tiên cho phát triển năng lượng tái tạo; điện than, khí chỉ là để bù phần thiếu.
Việt Nam có lợi thế nhờ giàu tiềm năng thủy điện. Đồng thời, hoàn toàn có thể tiếp nhận nhiều nguồn năng lượng tái tạo nên việc cân nhắc phát triển nhiệt điện tới đâu là cần thiết.
PV: Xin cảm ơn ông!